Truyền thống văn hóa Phật giáo Việt nam với nhiều nét chấm phá đặt biệt, chúng ta có thể thấy sự xuất hiện có mặt của Ni giới Việt Nam là sớm hơn so với Ni giới Trung Quốc, như sự xuất hiện của Bát Nàn Công Chúa1 xuất gia làm Ni, hay theo Niên Biểu Phật giáo Việt Nam: “Vào năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Định, Sư cô Thiều Hoa rời khỏi chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, Sư cô Thiều Hoa lại trở về chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Đông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là “chủ soái” lưu đày ra Linh Lăng. Phật giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những Tăng Ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật”
Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi Sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời chùa đi cứu nước chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một Ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn Ni chúng người Hoa… cho đến sự xuất hiện lỗi lạc của các vị Ni được ghi chép cẩn thận trong Thiền Uyển Tập Anh là Tổ Ni trong Thiền Uyển Tập Anh là Ni sư Diệu Nhân2. PGS. TS. Trần Thị Băng Thanh viết: “… Diệu Nhân là một nữ sĩ của buổi đầu lịch sử văn học Việt Nam. Đối với những câu hỏi lớn mà các tín đồ đạo Phật thời nào cũng bàn đến như sắc không, sinh tử, mê giác, thịnh suy… Diệu Nhân đã góp thêm một cách nhàn sáng suốt, một thái độ điềm nhiên cứng cỏi, góp phần làm nên tinh thần lạc quan, trí tuệ của văn học thiền thời Lý Trần, mà văn học thiền các giai đoạn sau không còn giữ được… ”
Có thể nói rằng, qua các giai đoạn khác nhau, không thời nào không có chư Ni lỗi lạc nối truyền hạnh nguyện Tổ Ni Kiều Đàm ra đời, tiếp dẫn hậu lai, truyền trì mạng mạch Phật pháp không chỉ riêng với Liên tông Tịnh độ Non Bồng, Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác còn là một trong những cây tùng của Ni bộ Việt Nam thời hiện đại. Ni trưởng là một tấm gương lớn về sự cống hiến cho đạo pháp và nỗ lực giúp đời bằng nhiều hoạt động có ý nghĩa.
Liên tông Tịnh độ Non Bồng (LTTĐNB)
Liên tông Tịnh độ Non bồng được chính thức thành lập vào năm 1959.Từ năm 1955, Đức Sư Ông Bửu Đức đã truyền trao pháp tu đến Tôn sư Thiện Phước Nhựt Ý, thuộc dòng Lâm Tế thứ 41. Từ đây, nhiều ngôi chùa đã được tiếp tục dựng lên, đánh dấu thời kỳ hình thành của LTTĐNB.
Năm 1956, vị Đạo nhân đi về miền Đông, kinh qua nhiều gian truân thử thách, qua nhiều trú xứ, đến cầu pháp với Đại lão Hòa thượng Hồng Ân Trí Châu, được truyền pháp “Thiền Tịnh song tu” pháp phái Tổ đình Quốc Ân Kim Cang, của Tổ sư Nguyên Thiều Siêu Bạch tại Long Sơn cổ tự, xã Tân Ba, Quận Tân Uyên. Lúc bấy giờ, Đạo nhân được ban đạo hiệu là Nhựt Ý và cuối cùng đăng sơn núi Dinh, Bà Rịa, được Yết Ma Sen giao phó Tổ Đình Linh Sơn cho Đạo nhân làm Trụ trì. Vị đạo nhân đó là Đức tôn sư Hòa thượng Thiện Phước Nhựt Ý, biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai, người sáng lập môn phái Liên tông Tịnh độ Non Bồng, Đạo sư Quan Âm Tu viện (QATV), nay đã có 170 ngôi Tự, Viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Đạo tràng thuộc môn phái trên cả nước, giáo hóa hàng ngàn Tăng Ni, hàng chục vạn tín đồ Phật tử quy y tu tập theo pháp môn.
Như vậy, từ đầu thế kỷ XX, ở Nam Kỳ đã xuất hiện một pháp môn tu hành học đạo theo Tịnh độ tông, do Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức khởi xướng. Đến năm 1955, Đức Sư Ông truyền dạy pháp môn này cho Ngài Thiện Phước Nhựt Ý và vào năm 1959 Ngài Thiện Phước chính thức thành lập Liên tông Tịnh độ Non Bồng tại vùng đất Đồng Nai, khu vực núi Bồng Lai.
Để phát huy truyền thống Đạo pháp và Dân tộc, Tôn Sư thể hiện Chơn lý trước tiên qua các Phật sự khẩn hoang, truyền thừa pháp môn tu khai sơn pháp phái, trùng hưng chùa cũ, tu bổ chùa hư nền sập trở lại khang trang tốt đẹp.
LTTĐNB chủ trương theo tinh thần Phật giáo dấn thân mạnh mẽ, đem đạo vào đời bằng cách tổ chức các hoạt động TT-XH như: thành lập cơ sở nuôi dưỡng cô nhi, người già neo đơn, trồng rừng bảo vệ môi sinh, mở lớp dạy học, tham gia công tác giáo dục, xây nhà tình thương, đem ánh sáng cho người mù…
Ni trưởng Huệ Giác người đi đầu các hoạt động của LTTĐNB
Thế danh của Ni trưởng là Nguyễn Thị Cưng. Ni trưởng sinh năm 1936 tại làng Tân Ba, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé (nay là xã Thái Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), xuất thân trong một gia đình nếp trung lưu gia giáo. Thuở hoa niên, Sư là một nữ sinh xuất sắc, mẫn tiệp của trường Trung học Gia Long, Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai). Ni trưởng xuất gia vào ngày mùng 9 tháng giêng năm Mậu Tuất (1958) với Pháp danh Huệ Giác.
Công tác trồng rừng:
Với tâm nguyện nhập thế cứu đời, thể hiện tinh thần “bi – trí – dũng”, bằng nhiều công tác từ thiện xã hội có ý nghĩa hướng về nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, Sư bà Huệ Giác là một tấm gương về lòng từ bi của người đệ tử Phật, một minh chứng sống động của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hoằng pháp và từ thiện. Dù ở đâu và lúc nào cũng vậy, Ni trưởng luôn hướng tâm về các người yếu thế và khuyết tật, chủ động đi sâu vào đời sống khó khăn vất vả của người dân ở vùng thiên tai, lũ lụt hay các địa phương vùng sâu, vùng xa. Ni trưởng, tuy là thân người nữ, nhưng từ lúc xuất gia đảm đang rất nhiều Phật sự, từ những việc thật khó khăn như trồng rừng.
Tiếp đó, theo tinh thần nghị quyết kỳ II của TW Giáo hội Phật giáo Việt Nam về việc phát huy tự túc kinh tế nhà chùa và hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Đồng Nai. Hòa thượng Thích Thiện Phước phát động toàn thể Tăng Ni trong tông môn trồng cây gây rừng, phủ màu xanh cho rừng núi, mỗi người trồng ít nhất là 100 cây tràm, điều, bạch đàn, sao… Sau 2 năm, mầm xanh đã nhú lên trên mặt rừng khô cằn, hạt ươm ngày nào trở thành những cây con khắp nơi. Nhận thấy hiệu quả ấy, Cục Kiểm Lâm tỉnh Đồng Nai đã tiếp tục giao thêm đất rừng cho Quan Âm Tu viện quản lý.
Đến năm 1984, nhân kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ, Ni trưởng Huệ Giác lần đầu tiên phát động phong trào trồng cây gây rừng. Tham gia buổi lễ có ông Phạm Văn Hy – Bí Thư Tỉnh Ủy Đồng Nai, ông Lê Văn Nà – chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, ông Lê Hữu Sanh – Giám đốc Sở Nông Lâm Nghiệp thời bấy giờ. Quan Âm Tu viện nhận đất và trồng rừng bắt đầu từ khu rừng ở ấp 5 xã Long Phước, huyện Long Thành trải dài cho đến tận núi Dinh (xã Hội Bài, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Quan Âm Tu viện đã quản lý được khu rừng đóng trên địa bàn 2 tỉnh với diện tích 350 ha3.
Hiện nay, người đã tổ chức cho chư Tăng Ni các nơi kết hợp với địa phương các nơi trồng khoảng 1000 hecta rừng sinh thái, nhằm tạo ra nguồn kinh phí cho các hoạt động từ thiện – xã hội. Quỹ được trích từ nguồn lao động sản xuất thu nhập từ trồng rừng và nguồn vận động đóng góp của các Tăng Ni, Phật tử, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm… Ni trưởng đã tổ chức cho các Tăng Ni lao động, sản xuất, làm ruộng, trồng rừng… tạo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập chân chính bằng sức lực của chư Tăng Ni để nuôi sống bản thân, có nguồn kinh phí tu học, xây dựng và đóng góp làm từ thiện nhân đạo. Tạo việc làm cho người dân địa phương. Đồng thời giáo dục cho toàn thể Tăng Ni, Phật tử học tập và tu tập theo đúng đạo pháp, thực hiện tốt theo các quy định của pháp luật. Từ năm 1984 đến nay Ni trưởng đang quản lý trên 1000 hecta rừng phòng hộ và tự trồng tự hưởng4.
Công tác từ thiện nuôi dưỡng cô nhi thành lập viện dưỡng lão
Với nếp sống chân phương, bình dị, Người thường đi thăm viếng các vùng sâu xa, tặng nhà tình thương cho người dân Đất Mũi, chăm lo cho người mù, ủng hộ đào giếng xây cầu, gầy dựng giữ gìn hoạt động phòng thuốc đông y hơn 15 năm qua rất hiệu quả. Đặc biệt, Ni trưởng còn chăm lo nuôi dưỡng cô nhi, cưu mang người già, nuôi người bại liệt tâm thần. Vì thế, năm 2007, ngoài cương vị Phó ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai, Ban Trị sự còn suy cử Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác làm Trưởng ban Từ thiện Xã hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Đồng thời, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đề cử Ni trưởng làm Phó Phân ban Ni giới Trung ương GHPGVN ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên (2007-2012). Hiện tại, Ni trưởng là chứng minh Phân ban Ni giới Trung ương nhiệm kỳ 2017-2022.
Các công tác hoằng pháp, tu tập và đào tạo Ni chúng
Trong công tác hoằng pháp, Ni trưởng là người khéo khuyến thiện, tôn trọng người tu sĩ, cư sĩ có tinh thần yêu nước, luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử thực hành Tứ trọng ân, luôn hướng dẫn cho Liên tông Tịnh độ Non Bồng có nhiều hoạt động đúng tinh thần Hộ quốc an dân của Phật giáo Việt Nam.Với khoảng 180 thời giảng pháp từ Bát quan trai cho đến việc hoằng truyền Tịnh độ.
Trong môn phong thì Người là Tông trưởng Liên tông Tịnh độ Non Bồng theo di nguyện của Đức Hòa thượng Thiện Phước – Nhựt Ý, Viện chủ Quan Âm Tu viện Biên Hòa (Đồng Nai), đồng thời là người khai sơn và chứng minh trên 170 ngôi chùa, tự viện, tịnh thất, niệm Phật đường thuộc Tông phong tại các tỉnh, thành trong toàn quốc. Số đệ tử xuất gia với Ni trưởng đến nay khoảng hơn 900 vị. Ni trưởng là người có công thành lập và đứng đầu Ni giới Liên tông Tịnh độ Non Bồng. Trong đó có chư vị NS. gương hạnh về giới luật, phạm hạnh tu hành như NS. Diệu Hòa, NS. Diệu Thọ, NS. Diệu Tín, NS. Diệu Tường, NS. Diệu Thường, NS. Ngọc Bửu, NS. Vạn Tâm, NS. Diệu Lành… chư vị Ni sư là giáo thọ học viện PGVN tại TP.HCM, các trường trung – sơ cấp Phật học như: NS. Kim Sơn, NS. Hương Nhũ, SC. Diệu Thắng, SC. An Diệu, SC. Hạnh Hiếu…
Ngoài ra, với sự nghiệp giáo dục Tăng Ni, Ni trưởng Huệ Giác hiến đất xây dựng Trường Trung cấp Phật học Đồng Nai, kiêm nhiệm ban giám hiệu nhiều khóa liên tiếp, đồng thời tham gia ban bảo trợ cho trường trong nhiều năm.
Thực hành tôn chỉ của tông phong, Ni trưởng Huệ Giác cho mở khóa niệm Phật bá nhựt trì danh trong 3 tháng (từ mùng 08/08 đến tháng 17/11 AL hàng năm tại Nhứt Nguyên Bửu Tự – Bình Dương) đều đặn mỗi năm và nay là thứ 50.
Mặt khác, mỗi tháng tại các tự viện môn phong đều mở khóa trì Chú Đại Bi trong một tuần lễ theo sự chỉ đạo của Ni trưởng. Với nội bộ tông phong, mỗi lần họp mặt, mặc dù tuổi cao sức yếu, nhưng với tư cách là người đứng đầu, Ni trưởng thường gần gũi dạy dỗ, khuyên răn đồ chúng, gắng sức công phu để tiến tu giải thoát, tự giác giác tha và nổ lực hoằng dương chánh pháp.
Vì vậy, bằng con đường trải nghiệm tâm linh sâu sắc, ẩn tu mật hạnh và là tấm gương đức hạnh tỏa rạng, nên Ni chúng Đồng Nai thường cung thỉnh Ngài làm Đàn chủ của nhiều đàn giới, thiền chủ, phó thiền chủ các trường hạ trong ngoài tỉnh thành.
Thay lời kết
Những thành tựu Phật sự của Ni trưởng đã được Nhà nước cùng các tổ chức đoàn thể và các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam ghi nhận, tuyên dương công đức và tặng nhiều Huân chương, Huy chương, Bằng khen cao quý. Thiết nghĩ, tuy người làm là mật hạnh, những sự ghi nhận khen thưởng này cũng phần nào nói lên tấm lòng cao cả, nhiệt huyết vì đạo vì đời của một vị Ni trưởng- ngôi sao sáng cho Ni giới Việt Nam học tập, tự hào.
Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác là một trong những tấm gương sáng về đạo hạnh, đức hy sinh và lòng nhân ái. Đạo nghiệp và công hạnh của Ni trưởng tỏa sáng giá trị xương minh, hoằng truyền Tịnh độ, phát triển lòng vị tha qua công tác từ thiện, hộ quốc an dân, tự túc kinh tế, nâng cao giáo dục và tích cực trồng rừng. Bởi thế, Ni trưởng cũng như Tông Phong Liên tông Tịnh độ Non Bồng đã góp phần xây dựng ngôi nhà chung Phật giáo Việt Nam ngày càng vững mạnh, đồng thời cho thấy vai trò đối với đạo pháp và dân tộc của Ni giới nước ta trước nay.
T. Thiện Huy (ĐSHĐ-053)
Học viên cao học, HV PGVN cơ sở 1 TP.HCM
Diễn đọc: SC Huệ Pháp
- Bát nàn là nữ tướng của Trưng Vương. Sau khi đánh đuổi được Tô Định chạy về Tàu, bà không chịu nhận quan tước, rồi từ đó xuất gia đầu Phật. Vào ngày 16 tháng 3 âm lịch bà mất tại chùa. Về sau, dân làng Tiên La thờ Bát Nàn Công Chúa làm Thành Hoàng.
- Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, vị thiền sư Ni đầu tiên, người trưởng lão Ni tuyệt vời, còn lưu lại bài kệ thị tịch, những lời nói sau cùng, những lời nhắn bảo cuối cùng, những lời nói thật, gây chấn động mãnh liệt nơi nội tâm, thức tỉnh chúng ta trên dòng sinh tử, để lại dấu ấn đậm sâu, thắm đượm mãi trong lòng người đến tận hôm nay và mai sau
- Thích Thiện Huy (2017), Công tác trồng rừng của Liên tông Tịnh độ Non Bồng – Một mô hình bảo vệ môi trường của Phật giáo Việt Nam hiện nay, tham luận trong văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VIII, tổ chức tại Hà Nội.
- http://www.redcross.org.vn/redcross2/vn/home/InfoDetail.jsp?area=1&cat=1945&ID=17059
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, NXB Văn Hóa, Hà Nội, chương 3.
Kim Sơn (1976), Thiền phái Trúc Lâm – Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát dịch, NXB Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, tr.54.
Thích Thắng Hoan (2016), Những đặc điểm của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam.
Trần Hồng Liên (2010), Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam. NXB TP.HCM.
Nhiều tác giả (2002), Lịch sử các chùa trong tỉnh Đồng Nai, NXB Văn hóa Thông tin.
Thích Giác Quang (2016), Liên tông Tịnh độ Non Bồng 57 năm hình thành và phát triển. NXB Hồng Đức.
Thích Giác Quang, (2016) Hoa sen bên núi xưa, NXB Phương Đông.
Viện Triết học (1998), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng của dân tộc, Hà Nội, tr.15.
http:// www.giaohoiphatgiaovietnam.vn/tin-tuc/
http://www.redcross.org.vn