Buổi nói chuyện văn học lịch sử về tính cách khả ái, văn nhã, yên tĩnh, thuần khiết siêu trần thoát tục, phong độ ngời ngời, khí chất chi lan, phẩm đức cao thượng, độc nhất vô nhị… của hương trà tại Nội Mông.
Mạn đàm về lịch sử văn hóa Hinh Minh.
Sự dung hợp giữa văn hóa Trà và văn hóa Thiền đã hình thành nên câu nói: “Trà Thiền Nhất Vị”. “Trà Thiền Nhất Vị”, nghĩa là tinh thần Trà đạo có sự gần gũi tương thông với tư tưởng Thiền học. Thiền, cũng gọi là “Thiền-na”. Sau này, Ngài Cưu Ma La Thập đời Hậu Tần dịch là “Tư Duy Tu”. Huyền Trang, cao Tăng đời Đường dịch là “Tĩnh Lự”. Thiền, thông qua việc rèn luyện thiền định, tập trung ý niệm vào một nơi, nội tâm không bị thế giới bên ngoài quấy nhiễu, làm cho suy nghĩ trong suốt như nước và tinh khiết như Trà.
Tư tưởng Thiền tông có ảnh hưởng nhiều mặt đến văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trà là một thứ cần thiết trong đời sống hàng ngày của người Trung Quốc, được mệnh danh là “Quốc ẩm” của Trung Quốc. Thế thì, Trà và Thiền bắt đầu kết duyên với nhau từ khi nào?
I. Mối liên hệ giữa Trà và Thiền
Thiền tông được sáng lập vào thời Nam Bắc Triều. Trà và Thiền gặp nhau lần đầu tiên trên đất nước Trung Quốc. Vì vậy, muốn hiểu rõ quá trình kết duyên giữa Trà và Thiền, chúng ta nên bắt đầu từ thời kỳ thành lập Thiền tông Trung Quốc.
1. Cuộc sơ ngộ Trà Thiền thời Nam Bắc triều Thời kỳ Lương Võ Đế (464-549) Nam Bắc Triều, Bồ Đề Đạt Ma1 từ Nam Thiên Trúc vượt biển đến Trung Hoa, sau đó vượt sông Dương Tử về phía Bắc, sáng lập Thiền tông Trung Quốc tại chùa Thiếu Lâm, Tung Sơn, trở thành Sơ Tổ của Thiền Tông. Theo truyền thuyết khi Tổ Đạt Ma ngồi thiền rất thích uống trà, tại Nhật Bản và Ấn Độ, thậm chí còn lưu truyền và nói rằng, trà có nguồn gốc từ sự biến đổi tầm mắt của Bồ Đề Đạt Ma.
Tương truyền, lúc Tổ Sư Đạt Ma tu hành, ngồi thiền trong một hang động trên ngọn núi phía sau chùa Thiếu Lâm, Tổ thường mệt mỏi ngủ quên. Sau khi tỉnh dậy, Tổ tự trách mình không thôi vì hành vi ngủ gật khi đang thiền tọa. Để tránh việc mình lại ngủ quên lần nữa, Tổ đã xé mí mắt của mình ném xuống đất và tiếp tục thiền định. Ngay chỗ Tổ Đạt Ma ném mí mắt, mọc lên một cây con tỏa hương thơm ngát, ngửi vào tinh thần rất sảng khoái. Sau này, mỗi lần tọa thiền gặp phải hôn trầm, Tổ liền ngắt một vài lá non trên cây nhai, thế là cơn buồn ngủ biến mất, tinh thần tràn đầy năng lượng, hưng phấn gấp bội. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đặt tên cho cây giống là Trà, và điều này đã trở thành truyền thuyết trong nguồn gốc của trà.
Tất nhiên, truyền thuyết cuối cùng vẫn chỉ là truyền thuyết. Về sự ra đời của trà, trong “Thần Nông Bản Thảo Kinh” có ghi chép: “Thần Nông nếm trăm loại thảo mộc, mỗi ngày gặp bảy mươi hai loại độc, lấy trà để giải trừ”. “Trà Kinh” do Lục Vũ2 thời nhà Đường trước tác, là một bộ sách chuyên khảo giới thiệu về trà sớm nhất, hoàn chỉnh nhất và toàn diện nhất, hiện tồn tại trên thế giới, được khen ngợi là Bách khoa toàn thư về trà. Trong “Trà Kinh”, Lục Vũ cũng nói: “Trà là thức uống có nguồn gốc từ Thần Nông”. Cách nói này cũng có bằng chứng trong văn hiến điển tịch khác, nói rõ việc sử dụng trà ở Trung Quốc đã có ít nhất bốn nghìn năm lịch sử.
Cũng có một số người cho rằng, trà có nguồn gốc từ thời nhà Đường. Lý do là: Ký tự truyền thống của chữ “trà” trước đời Đường là “trà” (có nét ngang), mãi đến thời Đường, đem chữ Trà trong “Trà Kinh” của Lục Vũ giảm bớt một nét, viết thành chữ “trà” (giảm nét ngang), mới có chữ Trà này. Nhưng đây chỉ là sự đơn giản hóa của văn tự, trên thực tế, thói quen sinh hoạt uống trà của người Trung Quốc đã tồn tại trước khi xuất hiện chữ “trà” này.
Chẳng qua là vào thời kỳ Nam Bắc Triều, khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa sáng lập Thiền tông Trung Quốc, Trà và Thiền mới tương hội một cách thú vị. Đến đời Đường, Lục Tổ Huệ Năng (638-713), Tổ thứ sáu của Thiền Tông trước thuật “Đàn Kinh”, phát dương quang đại Thiền tông, đại hưng Thiền phong, các Thiền sư khi đả tọa rất thích uống trà. Kể từ đó, trong Phật giáo đã xuất hiện nhiều hoạt động Phật sự liên quan đến trà, gọi là Trà Sự3.
Vào thời nhà Đường, có nhiều dạng Trà Sự rất phong phú trong Phật giáo. Chư Tăng dâng trà cúng Phật cúng Tổ gọi là “Điện Trà” ; trong nghi thức thăng tòa tấn sơn nhậm chức của tân trụ trì có “Điểm trà” ; chư tăng mời trà cho thí chủ gọi là “Phật Trà” ; Lễ Phật Đản trong các tự viện, lấy trà tắm gội thân Phật gọi là “Tẩy Phật Trà”, uống trà lúc tu thiền gọi là “Thiền Trà” , trà mà chư Tăng uống hàng ngày gọi là “Phổ Trà”; Tự viện dùng trà tổ chức yến tiệc, lấy trà giao lưu gọi là “Trà Yến”, cũng gọi là “Trà Hội”. Theo số lượng trà sự trong nghi lễ Phật giáo ngày càng nhiều, càng tăng, thì mối quan hệ giữa Trà và Thiền ngày càng dần dần mật thiết, việc uống trà đã trở thành một phần trong đời sống hàng ngày của các tu sĩ Phật giáo.
Hiệu Nhiên4 (Kiểu Nhiên), cao Tăng đời Đường, từng sáng tác một bài thơ ca vịnh về cảm giác uống trà. Sư nói: Uống một ngụm trà đầu tiên xua tan cơn buồn ngủ, cảm thấy tinh thần sảng khoái sáng suốt. Uống ngụm thứ hai thanh lọc tâm trí tôi, như cơn mưa rào bất chợt bay bay rửa lớp bụi trần. Sau ba tách ngộ được chân lý, hà tất phải khổ tâm phí sức phá trừ phiền não. Nào ai biết uống trà có thể đạt được Đạo, đạt được cái toàn mà chân của Đạo?
Phiên âm:
Nhất ẩm địch hôn mị, tình tư sảng lãng mãn thiên địa
Tái ẩm thanh ngã thần, hốt như phi vũ sái khinh trần
Tam ẩm tiện đắc đạo, hà tu khổ tâm phá phiền não.
Tạm dịch:
Một tách trà thơm tỉnh ngủ thôi
Tâm tư sảng khoái vượt đất trời
Tách hai thanh lọc thần, tâm trí
Bỗng tợ mưa bay tẩy bụi đi
Tách ba uống rồi liền chứng Đạo
Đâu cần khổ tâm phá phiền não .
Nguyên văn:
一飲滌昏寐,情思爽朗滿天地。
再飲清我神,忽如飛雨灑輕塵。
三飲便得道,何須苦心破煩惱。
Sở dĩ “Tách ba” có thể dẫn đến giác ngộ là bởi vì thi nhân đã nhìn ra, uống trà có thể “xua buồn ngủ”, “tâm trí thanh tịnh”, “phá trừ phiền não”, có thể ném bỏ ba độc tham lam, sân hận, si mê mà Phật giáo đề cập đến.
Theo Hiệu Nhiên, uống trà không chỉ có thể sảng khoái tinh thần mà còn có thể ngộ đạo. Hiệu Nhiên đã thích làm thơ còn thích uống trà, người đời sau không những gọi Hiệu Nhiên là “Thi Tăng” mà còn gọi là “Trà Tăng.”
Vì chư Tăng thích uống trà, nên các hoạt động Phật sự trong tự viện không thể tách rời trà, trong lễ nghi, quy tắc các tự viện đã xuất hiện rất nhiều nghi thức quy định có liên quan đến trà. “Trà đạo” lần đầu tiên xuất phát từ bộ “Bách Trượng Thanh Quy” – nghi quỹ của Thiền Tông vào thời nhà Đường
Nội Mông Cổ – Thanh Như (dịch){ĐSHĐ-129}
- Bồ Đề Đạt Ma (5/10 âl-536): Còn gọi Bồ Đề Đạt Ma Đa La, Bồ Đề Đa La, thông xưng Đạt Ma, dịch là Giác Pháp, Đạo Pháp. Người Nam Thiên Trúc, Ấn Độ, thuộc chủng tánh Sát Đế Lợi, vốn là Vương tử thứ ba của Vua Hương Chí, Nam Thiên Trúc. Tổ là Tổ đầu tiên của Thiền Tông Trung Hoa – Phật giáo Đại Thừa và là Tổ thứ hai mươi tám của Tây Thiên (Ấn Độ). Trước tác của Tổ: “Thiếu Thất Lục Môn” quyển thượng và hạ, bao gồm sáu loại: “Tâm Kinh Tụng” , “Phá Tướng Luận”, “Nhị Chủng Nhập” , “An Tâm Pháp Môn”, “Ngộ Tánh Luận” và “Huyết Mạch Luận”. Ngoài ra còn có “Đạt Ma Hòa Thượng Tuyệt Quán Luận” , “Thích Bồ Đề Đạt Ma Vô Tâm Luận”, “Nam Thiên Trúc Bồ Đề Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn”, v.v…, được khai quật ở Đôn Hoàng, hầu hết đều ký thác cho các thế hệ đời sau. Đệ tử của Tổ bao gồm Huệ Khả, Đạo Dục, Tăng Phó, Đàm Lâm… Tổ viên tịch năm thứ hai, Đại Đồng Lương Vũ Đế.
- Lục Vũ (733-804), tên Tật, tự Hồng Tiệm, Quí Tì đời Đường. Người Cánh Lăng (nay là Thiên Môn, Hồ Bắc), Phúc Châu. Chuyên gia về trà và là người sáng lập văn hóa trà thời nhà Đường. Năm đầu Thượng Nguyên (760), Lục Vũ sống ẩn dật ở Thiều Khê (nay là Hồ Châu, Chiết Giang), soạn viết ba quyển “Trà Kinh”, đều có thảo luận về đặc tính, chất lượng, nguồn gốc, cách trồng, thu hoạch, sao chế, pha nấu, dụng cụ, v.v… của trà. Quyển sách này là một bộ sách chuyên khảo về trà đầu tiên trên thế giới. Lục Vũ có bản chất khôi hài, ông giao tình thâm hậu với Thi Tăng Hiệu Nhiên và nữ thi sĩ Lý Quý Lan. Những năm cuối đời ông sống ẩn dật, sau khi mạng chung được an táng tại Cánh Lăng (có thuyết cho rằng ông được chôn cất ở Trữ Sơn, Hồ Châu).
- Trà Sự Trà sự có rất nhiều chủng loại, cách nói thời cổ đại có “Tam thời trà”, tức là theo thời gian ba bữa cơm chia thành Triêu hội (trà buổi sáng), Thư hội (trà buổi trưa) , và Dạ hội (trà tối); cách nói hiện nay có “Trà sự Thất sự” tức là: trà sự bình minh, trà sự rạng đông, trà sự buổi trưa, trà sự buổi tối, trà sự sau bữa cơm, trà sự chuyên đề và trà sự lâm thời.
- Hiệu Nhiên (Năm sinh và mất không rõ): Thi Tăng đời Đường. Họ Tạ, tự Thanh Trú, người Ngô Hưng (nay là Chiết Giang), cháu đời thứ mười của nhà Văn học, nhà Phật học, Thi nhân… Tạ Linh Vận (385-433), thời Nam triều. Thơ của Sư thanh tân tao nhã, phần lớn là những bài thơ đáp tặng, tống biệt, du ngoạn cảnh quan sơn thủy, rất nổi tiếng. “Thi Thức” của Sư là một trong những tác phẩm có giá trị lúc bấy giờ. Sư là người có trình độ sâu sắc về nhiều phương diện như Văn học, Phật học, Trà học, có thể gọi là Nhất đại tông sư.