1. Khái quát cuộc đời và hành trạng
Ni trưởng Diệu Tịnh tục danh là Phạm Thị Thọ, sinh năm 1910, tại Gò Công. Năm 1925, Ni trưởng xuất gia, cầu đạo với Hòa thượng Chí Thiền và được ban pháp danh là Hồng Thọ, hiệu Diệu Tịnh. Năm 1930, Ni trưởng thọ giới Tỳ-kheo-ni tại Trường Kỳ, núi Điện Bà (tục gọi là núi Bà Đen), do Hòa thượng Từ Phong làm Đàn đầu Hòa thượng. Sau khi thọ giới, Ni trưởng dành nhiều thời gian để nghiên cứu kinh kệ và tự dịch một số bộ kinh như Vu Lan, Phổ Môn, Pháp Bảo Đàn, đồng thời cho ấn tống và phát hành rộng rãi để khích lệ tinh thần tu học trong Tăng chúng.
Ngày 26/8/1931, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học chính thức được thành lập. Hưởng ứng công cuộc chấn hưng Phật giáo do hội này phát động, Ni trưởng Diệu Tịnh đã có bài thơ cổ vũ:
Trống pháp rền nghe đã khắp xa
Kêu người sớm tỉnh giấc Nam Kha
Lý mầu vẹn tỏ màn vân nguyệt
Lời đẹp thêu nên vẻ gấm hoa
Đuốc tuệ soi ra miền Tịnh Độ
Thuyền từ đưa khỏi biển Ta bà
Mai sau hạnh phước người chung hưởng
Muôn thuở còn nêu đức lợi tha.
Năm 1933, chùa Giác Hoàng (Bà Điểm) khai Trường hương cho hai giới Tăng, Ni tu học và Ni trưởng được mời làm Chánh na. Năm 1934, Ni trưởng Diệu Tịnh cùng với Ni trưởng Diệu Tấn (chùa Kim Sơn), Ni trưởng Diệu Tánh (chùa Huê Lâm), Ni trưởng Diệu Thuận tích cực đóng góp công sức để xây dựng chùa Từ Hóa (đến năm 1936 đổi tên thành Hải Ấn) tại làng Tân Sơn Nhì, Bà Quẹo, Gia Định. Đây là ngôi chùa Ni đầu tiên do chính chư Ni dựng lập.
Tháng 4/1938, chùa Phước Long (Mỹ Tho) khai hạ, Ni trưởng được mời làm Pháp sư giảng dạy trong ba tháng. Khi mãn hạ, Ni trưởng ra Bắc nghiên cứu thêm về Luật tạng. Đến Bắc kỳ, Ni trưởng tham gia thuyết pháp tại chùa Phó thuộc Tỉnh hội Hưng Yên. Sau đó, Ni trưởng quay về chùa Quán Sứ để nghiên cứu kinh luật. Hoàn thành khóa học, Ni trưởng về lại miền Nam để chung lo Phật sự.
Tháng 2/1940, Ni trưởng được mời làm Giáo thọ tại Trường Cô Ba Xàng, Sa Đéc. Được ba tháng, chủ chùa rút vốn nên trường học phải ngưng hoạt động. Trước tình hình như vậy, Ni trưởng Diệu Tịnh đã vận động chư Tăng, Ni góp thêm kinh phí để đưa các học sinh sang chùa Vạn An tiếp tục theo học. Thời gian này, Hội Phật học Cao Miên đã có lời mời Ni trưởng tham gia thuyết pháp tại Hội quán Thanh Quang (Campuchia). Đầu năm 1941, Ni trưởng tiếp tục nhận được lời mời của Ban Tổ chức khai trường Ni tại chùa Linh Phước (Oai Khoa, Sa Đéc). Đây cũng là thời gian Ni trưởng bệnh nặng. Đến ngày mùng 01/7/1942 (âm lịch), Ni trưởng qua đời với 33 năm trụ thế và 12 năm hạ lạp.
2. Đóng góp trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam
Ngay khi quyết định xuất gia, Ni trưởng Diệu Tịnh đã bộc bạch rằng: “Tiện Ni đành lòng cắt ái, quyết chí xuất gia, mong tìm được đường giải thoát, để một ngày kia dìu dắt chị em đồng chí hướng ra khỏi sông mê, biển khổ, cùng nhau chung hưởng hạnh phúc vô vi trong cảnh giới thanh tịnh, an lạc.” Theo Ni trưởng, khi đã đặt niềm tin vào Đức Phật, quyết chí xuất gia, tu học, phải rèn luyện nhân cách, tham gia cải cách xã hội, cùng nhau lập am viện, tu hành, nghiên cứu Phật giáo, tỏ ngộ chơn thừa, dìu dắt nhau lên chín phẩm liên đài1.
Để có thể quy tụ Ni giới tham gia chấn hưng Phật giáo, vấn đề trước tiên cần thực hiện là phải chỉ rõ những hạn chế và yếu kém đã tồn tại bấy lâu nay trong Ni giới; phải nâng cao nhận thức và lòng tự tôn cho các chị em về địa vị và trách nhiệm của mình. Do đó, Ni trưởng Diệu Tịnh đã đứng ra kêu gọi nữ giới xóa bỏ tâm lý mặc cảm, tự ti, xây dựng một tinh thần tự lực, tự cường và tích cực tham gia gánh vác. Ni trưởng từng tuyên bố, muốn bảo tồn Phật giáo, muốn cảnh tỉnh Ni giới vì nhẹ dạ cả tin mà lầm đường theo ngoại đạo, phải đấu tranh loại bỏ những hiện tượng mê tín, dị đoan đang bao phủ trong sinh hoạt. Trong bài Lời than phiền của một cô vãi, Ni trưởng viết: “Phật giáo là đạo vô thượng mà người học đạo lại hành vi lắm điều không được thích hợp, thì có khác nào như sữa Tô lạc có vị rất ngon mà lại bị côn trùng sa vào nên hóa ra thành thuốc độc”. Theo Ni trưởng, Ni giới phải bỏ hẳn những thói quen sinh hoạt lỗi thời và công tâm suy nghĩ: Ai cũng là đồng bào, đồng chủng, đồng đạo, đồng tông Thích, đồng thân phận phụ nữ mà thương yêu lẫn nhau, quy tụ nhau về một chỗ. Chọn mục đích cao thượng của Đức Phật làm phương châm theo đuổi sẽ hoàn thành được nghĩa vụ lợi tha. Ni giới không nên tự cho mình độn căn thiểu trí, tự nghĩ mình bất tài mà nhàn ẩn nơi tịch mịch, chỉ mưu phần tự độ. Ngược lại, Ni giới phải chùi gương trí huệ mà soi mặt bản lai, đánh tiếng kim chung mà thức tỉnh người mê mộng, nắm tay, dìu dắt nhau ra khỏi nhà tam giới, để về đến cõi Nhất thừa. Phàm đã là người xuất gia, phải đoạn trừ được lòng ích kỷ, phải bỏ những hủ tục lạc hậu, vứt bỏ túi tham vô để, mở rộng lòng bác ái, học hạnh từ bi, trau giồi kiến thức, cùng nhau chỉnh đốn lại chế độ Ni giới cho hệ thống, trật tự, gom hết tài lực và nhân lực chung lo công việc chấn hưng Phật pháp. Nếu Ni giới làm được như vậy, bên Tăng dù có dùng kính hiển vi để soi xét cũng không thể lấy cớ gì mà coi thường hay chê trách được2-3.
Một trong những hoạt động tiêu biểu tiếp theo của Ni trưởng Diệu Tịnh là việc kêu gọi xóa bỏ tư tưởng “Nam tôn, nữ ti” và vấn nạn thất học trong Ni giới. Ni trưởng cho rằng: “Pháp môn tu hành tuy có nhiều cửa, có cửa lâu chứng, lâu nhập và có cửa mau chứng, mau nhập, song tất cả các cảnh đều do nơi học lực mới được thành công. Bởi có học mới biết lý mầu nhiệm, bởi biết lý mầu mới biết đường tu, bởi biết đường tu mới có chứng, có nhập. Xưa nay, những người không học mà cũng tu chắc là không nhằm gì, huống gì nói đến sự thành Phật4-5.” Trong khi đó, lâu nay, đại đa số phụ nữ học Phật chỉ biết đem đời xuất gia của mình phục vụ các việc như đun nước, pha trà, thành thử phải chịu rất nhiều thiệt thòi về phương diện giáo dục. Hệ lụy là: “Vì chưa hiểu Phật pháp mà sùng thượng ma vương, ngoại đạo; vì chưa hiểu Phật pháp mà khuất phục thần quyền; vì chưa hiểu Phật pháp mà tín đồ thất học; vì chưa hiểu Phật pháp mà mê tín Chánh pháp ngụy truyền; vì chưa hiểu Phật pháp mà nơi cửa chùa phô diễn lắm điều tồi tệ; vì chưa hiểu Phật pháp mà xả giới hoàn tục6. Theo Ni trưởng, nếu phụ nữ có được chương trình giáo dục như nam giới, sẽ góp phần bồi bổ thêm nhân tài cho Phật giáo.
Để làm được điều này, trước tiên cần phải xoá bỏ thành kiến trọng nam khinh nữ, thực hiện bình đẳng về giáo dục Phật giáo cho nữ giới. Một khi đã tiếp thu được nền giáo dục, nữ giới chẳng những sẽ có đủ tuệ nhãn để quan sát việc thiện ác, pháp chánh, pháp tà, phân biệt được người giả, người thật mà còn thấu hiểu được chân tướng của vũ trụ và thiện căn của nhân sinh, đủ tinh thần để đối phó với vật dục, đủ nghị lực để tranh đấu với ngoại đạo, không lo lắng sẽ đi trái với con đường trung đạo… Học phải gắn liền với hành, muốn thực hành hiệu quả, cần phải có trường học dành riêng cho nữ giới. Phật học đường của nữ giới nên chia làm hai lớp, một lớp dạy cho nữ giới xuất gia, một lớp dạy cho nữ giới tại gia.
Trong bối cảnh của những định chế xã hội đương thời, để Ni giới có thể thụ hưởng một cách đầy đủ nền giáo dục Phật giáo, đây quả là cả một vấn đề nan giải. Do đó, Ni trưởng Diệu Tịnh đã trăn trở, tìm phương cách để tháo gỡ nút thắt này. Đầu tiên, Ni trưởng đã mạnh dạn đứng lên kêu gọi chư Tăng, nhất là các bậc Tôn túc, những người tiên phong trong công cuộc chấn hưng Phật giáo ủng hộ và “phá rào” cho Ni giới được theo học.
Theo Ni trưởng, trong thời kỳ này, các vị cao Tăng, Đại đức nên chú trọng về sự giáo hóa cho Ni giới nhanh chóng thành tài, để hỗ trợ cho Tăng già trong việc chấn hưng Phật pháp. Các Ngài nên lấy tư tưởng “Tứ vô lượng tâm” mà bố thí Chánh pháp cho Ni giới. Đến một ngày, Chánh giáo phổ thông, Tăng và Ni đều được phần lợi ích. “Chúng tôi yêu cầu sự học đạo để làm kim chỉ nam cho tiện bề hành đạo. Sự học thức là gậy đuốc, có thông hiểu mới biết lối tu hành, nếu không học, có khác nào đường tối mà lại không có đuốc soi rọi. Chúng tôi mong sao thời kỳ phôi thai này dần dần lập nên được đoàn thể Ni giới cho trang hoàng, hầu một ngày kia nhờ ánh sáng chân chính ấy đánh tan những lối mờ ám bất bình, tạo thành một thế giới nam nữ bình đẳng của Phật giáo thì chẳng có gì quý bằng. Nếu được quý Ngài trong chốn tòng lâm sẵn lòng hỗ trợ, quý cư sĩ mở lượng khoan hồng, hy sinh tài lực để dựng nên một Phật học đường cho Ni giới, Phật giáo sau này sẽ có thêm nhiều nhân tài xuất thế để đảm nhận lấy trách nhiệm lợi tha.
Nút thắt thứ hai là việc khởi tạo cơ sở cho Ni giới theo học. Ni trưởng Diệu Tịnh đã chủ trương xây dựng Hải Ấn Ni Tự trở thành Phật học đường cho Ni giới. Ngày 30/8/1936, lễ khánh thành Hải Ấn Ni Tự được tổ chức tại làng Tân Sơn Nhì, Gia Định. Phát biểu tại buổi lễ, Ni trưởng tâm sự: “Phật giáo đồ ở Nam kỳ hiện nay không chịu hành trì theo đúng giáo lý và giới luật của Đức Phật. Trong nhiều chùa, Tăng Ni sinh hoạt chung với nhau, không có sự phân biệt và cũng chẳng có trật tự gì. Như vậy bảo sao lại chẳng xảy ra lắm điều tệ hại. Vì vậy mà nhiều người đã nhân cơ hội ấy để phỉnh gạt giáo đồ, làm điều bất chính, khiến cho quang cảnh tòng lâm trở nên lu mờ. May thay, các bậc cao Tăng, Đại đức, cư sĩ cùng nhau thành lập các hội Phật học và xuất bản tạp chí ở khắp ba kỳ. Các hội ấy đều lấy chủ nghĩa “bạt khổ dữ lạc” của Đức Phật làm căn bản. Đó là bên Tăng giới, còn bên Ni giới không nói sao cho hết khó khăn, nhọc nhằn. Nên Ni giới dù muốn chuyên tu, khổ luyện đi nữa cũng chẳng biết an trụ vào đâu. Vừa ở chùa này một thời gian đã xảy ra chuyện, phải qua chùa khác, nay đây mai đó, gián đoạn công phu sớm chiều. Có người vì trớ trêu của hoàn cảnh đã không đủ tinh thần và nghị lực chống chọi lại với những tình thế xô đẩy, những lời dị nghị của thế gian mà phải xả giới, hoàn tục. Vì những vấn đề như vậy nên chúng tôi đã cùng với các vị đạo tâm, kẻ góp công, người góp lực để tạo nên Ni viện này.”
Theo Ni trưởng Diệu Tịnh, Hải Ấn tức là “Chân như bản giác”, nghĩa là muôn sông, ngàn dòng cũng đều chảy ra biển, muôn vật ở đời cũng tự thân tâm mà ngộ đạo. Hễ mê, chân tâm tức chúng sinh, ngộ chân tâm tức Chư Phật. Ngôi chùa này được thành lập cũng do tự tâm nên lấy chữ Hải Ấn làm tên. “Nay Ni tự này thành lập, đã có cơ sở cho Ni giới, người nào phát tâm tu hành mà sợ thị phi, xin ở cùng chúng tôi mà tu học, để tránh ám muội, bước lên con đường chánh đại quang minh. Ấy là chưa nói đến sự rèn đúc nữ tài, tập thành nghề nghiệp để cho thích hợp với sự sinh hoạt hiện thời là khác nữa”. Vui mừng trước sự ra đời của Ni tự Hải Ấn, Ni sư Huyền Châu đã có bài thơ:
Trai trường vừa mở lúc thu giao
Cũng đáng mừng cho giới nữ hào
Cửa phạm xây nên trang vĩ đại
Lầu hồng treo để giá thanh cao
Ao sen nay thấy lắng thu nguyệt
Vườn lộc êm đưa tiếng hải trào
Hải Ấn danh nêu trên Phật sự
Ngàn năm rạng vẻ biết dường nào.
Cùng với việc đấu tranh xóa bỏ tư tưởng trọng nam, khinh nữ và xây dựng nền giáo dục cho nữ giới, Ni trưởng Diệu Tịnh còn kêu gọi Ni giới tích cực tham gia hưởng ứng công cuộc chấn hưng Phật giáo đang diễn ra rất sôi nổi ở miền Nam lúc bấy giờ. Trong bài diễn văn đọc tại chùa Linh Sơn, Ni trưởng Diệu Tịnh nhấn mạnh: “Chị em trong xã hội này, nào tín nữ, nào Ni giới phải tề tâm nhất trí mà lo sự trùng hưng Phật giáo nước nhà thì lợi ích biết bao. Nếu hiện nay nữ lưu ta không nhớ ơn Phật Tổ, không mẫn niệm chúng hậu côn, chẳng chịu ra thi hành chủ nghĩa kia cho cấp tấn, mà đành tai ngơ mắt lấp, riêng hưởng thú an nhàn, thì thương hại cho Thích Nữ ngày sau, kiếp kiếp, đời đời bị giam hãm trong cái khuôn quỷ táo. Tội lỗi ấy nơi ai? Mấy lời tâm huyết xin hỏi chị em Ni giới ta7.
Theo Ni trưởng, sở dĩ các nhà trí thức Trung Hoa, Nhật Bản và Âu Mỹ kêu gọi tổ chức các hội Phật giáo, tuyên truyền giáo pháp của Đức Phật là bởi họ muốn dùng tư tưởng, đạo đức của tôn giáo này để làm phương thuốc nhị biến độ sanh. Trong Nam kỳ, các Đại đức, cao Tăng và cư sĩ đã đem hết tinh thần, nghị lực để thành lập nên các tổ chức Phật học. Đó là những cống hiến của bên Tăng cho Phật giáo nước nhà, còn chị em Ni giới nghĩ sao? Chị em nên dự trù phương thức để giúp sức cùng Tăng giới, chẳng lẽ ngồi ôm thái độ hiền nhu cam phần thối khuất hay sao? Vậy ai là người có tâm huyết nhiệt thành muốn bảo tồn cơ sở di truyền của tổ tiên đã sùng bái đó vững bền nên biểu thị sự đồng tình mà tán thành công cuộc chấn hưng cùng các hội mới phải. Ni trưởng nhấn mạnh thêm, nếu lấy công tâm mà bình luận, trong Ni giới ở Nam kỳ hiện tại cũng có người thông minh trí huệ, không đến nỗi khờ dại ngu si; cũng có người hào phú phong lưu, không đến nỗi hàn vi thiếu thốn. Nhưng cớ sao nam giới lại xem thường Ni giới vậy? Có phải vì Ni giới đầu tròn áo vuông, ăn chay niệm Phật mà họ xem thường chăng? Không phải. Có phải vì Ni giới không ham vật chất, mến đạo Bồ đề mà họ xem thường chăng? Không phải. Có phải vì Ni giới đã dập tắt được ngọn lửa phiền não, vượt ra khỏi ải tà mê, nhen thắp đèn trí huệ mà họ xem thường chăng? Cũng không phải. Nam giới xem thường là xem thường tập quán lạc hậu, thái độ khiếp nhược của Ni giới, xem thường Ni giới tu học không có đoàn thể và không có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái. Thế nên, Ni giới đối với Phật giáo ngày nay phải cố gắng tu học, để sau này đem hết năng lực ra đảm nhận trách nhiệm hoằng pháp lợi sinh và kháng cự với tà sư, ngoại đạo. Như vậy mới không phụ chí khí xuất gia, lại đúng với nghĩa vụ của trang nữ lưu học Phật8.
Không dừng lại ở việc kêu gọi chấn hưng Phật giáo, Ni trưởng Diệu Tịnh còn đề cao tinh thần nhập thế của nữ giới. Trong một bài giảng tại chùa Linh Sơn, Ni trưởng phát biểu: “Chúng ta ở trong đạo Phật, xưng là đạo cứu khổ, không lẽ thấy tình trạng thống khổ của dân chúng như vậy mà đành điềm nhiên tọa thị được sao. Muốn giải quyết vấn đề khủng hoảng cho xã hội, phải thực hành hạnh bố thí của Đức Phật. Bố thí có ba lợi ích, một là để dứt lòng tham sân, hai là để cứu khổ cho nhân loại khỏi cảnh bần cùng, ba là để làm gương và cảm hóa người đời. Ngoài bố thí, chúng ta cũng nên hô hào bạn bè chung sức lập trường Phật học để hoằng dương Phật pháp, hoặc lập sở dục anh, lập nhà dưỡng lão, khai viện thí thuốc, để giúp đỡ cho những người nghèo khó. Không nên để môi trường Phật giáo chúng ta có điều gì khuyết điểm thì mới gọi là người trong đạo Phật9.
Chúng tôi xin được khép lại bài viết bằng nhận định của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh: “Ni sư Diệu Tịnh có thể được xem như bó đuốc đầu tiên của Ni giới miền Nam”. Quan điểm cải cách, chấn hưng Phật giáo của Ni trưởng đã thực sự lan tỏa mạnh mẽ, đồng thời, khởi lập nên một tâm thế phát triển mới cho Ni giới Việt Nam. Những đóng góp của Ni trưởng Diệu Tịnh không chỉ dừng lại ở những bài giảng, bài viết đăng tải trên Tạp chí Từ Bi Âm mà còn được thể hiện bằng những hành động, việc làm rất cụ thể và thiết thực. Trong đó, việc vận động thành lập cơ sở sinh hoạt và học tập đầu tiên cho Ni giới trên đất Nam Bộ có lẽ là dấu ấn điển hình nhất. Những cống hiến và đóng góp của Ni trưởng thực sự tạo ra những âm hưởng vô cùng to lớn mà đến nay, khi nhìn lại toàn bộ bước đường phát triển của Ni giới Việt Nam, chúng ta mới cảm nhận được hết điều này.
TS. Dương Thanh Mừng (ĐSHĐ-114)
Diễn đọc: Đức Tạng
- Diệu Tịnh (1937), “Cái khổ đau đớn”, Từ Bi Âm, số 130, tr. 24-27.
- Diệu Tịnh (1935), “Bài diễn văn hôm Đại hội của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học”, Từ Bi Âm, số 79, tr. 37-43
- Diệu Tịnh (1933), Lời than phiền của một cô vãi, Từ Bi Âm, số 27, tr. 18-23.
- Diệu Tịnh (1935), “Cái án ngụy truyền chánh pháp”, Từ Bi Âm, số 73, tr. 29-36.
- Diệu Tịnh (1938), “Nên tổ chức Trường Phật học để giáo dục phụ nữ không?”, Từ Bi Âm, số 148, tr. 36-39.
- Diệu Tịnh (1938), “Nên tổ chức Trường Phật học để giáo dục phụ nữ không?” Từ Bi Âm, Tlđd, tr. 36-39.
- Diệu Tịnh (1936), “Bài diễn văn đọc bữa rằm tháng bảy tại chùa Hải Ấn”, Từ Bi Âm, số 114, tr. 41-45.
- Diệu Tịnh (1935), “Bài diễn văn hôm Đại hội…”, Tlđd, tr. 37-43.
- Diệu Tịnh (1937), “Bài giảng tại chùa Linh Sơn hôm nhóm ngày Đại hội”, Từ Bi Âm, số 126, tr. 35-42.