Viện chủ chùa Liên Quang – Trà Vinh
(1915 – 2002)
I. Thân thế
Ni trưởng Tịnh Hoa, thế danh là Tăng Ngọc Thanh, sanh năm 1915 (Ất Mão) tại xã Long Đức, tỉnh Trà Vinh trong một gia đình thương nhân người Việt gốc Hoa. Thân phụ là cụ ông Tăng Hỉ, thân mẫu là cụ bà Lý Đệ, Ni trưởng là người con thứ tư.
Được sanh ra và lớn lên trong gia đình kính tin Tam Bảo nên lúc nhỏ Ni trưởng thường đến chùa lễ Phật tụng Kinh. Có lẽ do căn duyên nhiều đời và bản thân được nghe Kinh Phật nên hạt giống Bồ-đề đã chớm nở và từ đó chí nguyện xuất gia nhen nhún trong lòng.
Vì phụ thân mất sớm, còn anh chị đã lập gia thất nên Ni trưởng không đành bỏ lại mẹ già, em dại nên tạm gác ý định xuất gia để lo cho mẹ và hai em. Sau khi hai em lần lượt lập gia thất cũng là lúc Ni trưởng giao lại việc nhà và mẹ già cho các em phụng dưỡng để thực hiện chí nguyện xuất gia.
II. Thời kỳ xuất gia tu học
Năm 22 tuổi, Ni trưởng đến xin xuất gia với Hòa thượng thượng Thiện hạ Tâm (Viện chủ chùa Long Quang, xã Hòa Thuận) và được Hòa thượng hứa khả ban Pháp danh Tịnh Hoa, nối pháp đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế Gia Phổ.
Cùng xuất gia học đạo với Ni trưởng lúc bấy giờ có Ni trưởng chùa Phước Thành, Ni trưởng chùa Phước Long cùng một số huynh đệ khác. Ngày ngày huynh đệ cùng nương náu với Bổn sư bữa rau bữa cháo qua ngày, thanh bần lạc đạo, lấy công phu công quả, làm nền tảng tu trì. Với đức tánh nhu hòa nhẫn nại, tinh cần nên trên được Bổn sư thương mến, dưới được huynh đệ đồng môn và Phật tử xa gần giúp đỡ.
Xuất gia tu học được ba năm thì Bổn sư viên tịch. Một thời gian sau, lần lượt các sư huynh đệ mỗi người một nơi (có vị lãnh chùa làm Phật sự), Ni trưởng chỉ còn một mình tại chùa cũ làng xưa.
Tuy mất thầy xa huynh đệ nhưng Ni trưởng được sự dạy dỗ của chư Tôn túc Tăng Ni, bên Tăng có Hòa thương Viện chủ chùa Phổ Minh, bên Ni có Sư bà ở Trà Vinh đã tận tình dạy dỗ nên Ni trưởng cũng an ủi tinh thần. Sau đó, có lúc tìm về Tổ đình Phi Lai ở núi Voi, Châu Đốc là nơi Bổn sư quy y thọ phái.
Được biết quý Ni trưởng các chùa như Bảo An, Thiên Quang (Cần Thơ), Long Hòa (Nhà Bàn), Phật Bửu (Cai Lậy) … đều là bậc đạo cao đức trọng và cũng là huynh đệ đồng môn với Bổn sư nên Ni trưởng thường tới thăm viếng và thưa hỏi về đạo lý tu hành.
Năm 1942 lúc 27 tuổi, được các bậc Tôn túc Tăng Ni cho phép đăng đàn thọ giới Tỳ-kheo-ni ở chùa Kim Huê, Sa Đéc. Sau đó Ni trưởng được Sư bà ở Trà Vinh hướng dẫn nghe bộ Đại luật với Sư trưởng Từ Nguyên ở Sa Đéc. Thời gian tùng học nơi đây, Ni trưởng tỏ ra siêng năng học tập, với đức tính khiêm cung, hiền hòa, nhã nhặn nên được các Giáo thọ sư tận tình dạy dỗ.
III. Thời kỳ hành đạo
Sau khi học xong bộ Đại luật, Ni trưởng trở về Tổ đình Liên Quang chuyên lo Phật sự, quan tâm hướng dẫn đàn hậu học Ni để xiển dương Phật pháp bằng cách khi có đệ tử vừa xuất gia là Ni trưởng gửi tham học tại các trường Phật học như : Ni trường Từ Quang (Sa Đéc), Giác Thiên (Vĩnh Long), Quan Âm Tu Viện (Mỹ Tho), Từ Nghiêm, Dược Sư v.v… Đồng thời, Ni trưởng còn lo mở khóa Phật học tại chùa Liên Quang – Hòa Thuận vào năm 1966 để chư Ni các nơi quy tụ về chuyên học nội điển, lớp học duy trì gần hai năm và đến năm Mậu Thân (1968) gián đoạn.
Năm Kỷ Dậu 1969, được cụ bà Nguyễn Thị Như, thân sinh của Ni trưởng Như Ngọc hiến cúng miếng đất tại số 40 Hùng Vương để Ni trưởng xây tịnh thất và đặt tên là Liên Quang Thiền Viện.
Năm 1971, sau khi xây cất xong ngôi bảo điện và hậu Tổ Liên Quang Thiền Viện, Ni trưởng thực hiện hoài bão của mình là lên Tu viện Chơn Không (Vũng Tàu) học thiền với Hòa thượng Thanh Từ. Thời gian tòng học ba năm, dù tuổi già sức yếu nhưng Ni trưởng vẫn cố gắng theo học và thực tập đầy đủ theo sự hướng dẫn của Hòa thượng.
Đến năm 1975, hai ngôi Tổ đình Liên Quang và Liên Quang Thiền Viện đã được tu bổ thêm phần trang nghiêm để vừa thừa hành Phật sự vừa dạy Ni chúng. Uy tín ngày càng lan rộng nên rất nhiều người quy y thọ giới, chẳng những hàng tu sĩ xuất gia mà Phật tử tại gia cũng rất đông.
Lúc bấy giờ Ni trưởng đã ngoài lục tuần, mọi Phật sự tại hai chùa giao cho đệ tử đảm nhiệm, Ni trưởng dành thời gian nhập thất tịnh tu, tuy nhiên mọi Phật sự quan trọng đều được Ni trưởng làm cố vấn như : hằng năm mở khóa An cư Kiết hạ để chư Ni trong tỉnh và các tỉnh lân cận quy về tu tập, trau giồi Tam Vô lậu học đúng theo tinh thần Luật Tạng Phật dạy.
Năm 1990, Tỉnh hội Phật giáo Cửu Long mở trường Cơ bản Phật học khóa đầu tiên, Tăng Ni sinh chia hai nơi: chư Tăng tại trú xứ chùa Sơn Thắng (Vĩnh Long), chư Ni tại trú xứ Tổ đình Liên Quang (Trà Vinh). Công tác Phật sự này được Ni trưởng quan tâm lo lắng từ vật chất lẫn tinh thần.
Năm 1992, khi Trà Vinh tái lập tỉnh (gồm Vĩnh Long và Trà Vinh), Tổ đình Liên Quang vẫn tiếp tục là nơi tu học của chư Ni trong tỉnh. Kể từ năm 1993 đến 2002 trải qua ba nhiệm kỳ, Ni trưởng được tập thể Tăng Ni tín nhiệm suy cử làm Cố vấn cho Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Trà Vinh trong những vấn đề có liên quan đến Ni giới. Khi tỉnh nhà mở trường Cơ bản Phật học, một lần nữa các Ni sinh được Ni trưởng tiếp nhận vào tu học tại Tổ đình Liên Quang.
Bằng giới đức trang nghiêm, mô phạm chốn Tòng lâm, biểu tượng quy hướng cho chư Ni và Phật tử. Trong khoảng thời gian từ 1985 đến 2002, Ni trưởng đã từng đảm nhiệm chức vụ Hòa thượng Đàn đầu Ni tại các Giới đàn ở Trà Vinh và Vĩnh Long để truyền trao giới pháp cho giới tử Ni.
IV. Thời kỳ viên tịch
Dòng thời gian trôi mau, mới đó mà thân ngũ uẩn đã yếu dần như đèn sắp cạn dầu, trong mùa Hạ năm Nhâm Ngọ (2002), Ni trưởng lâm bệnh nhưng vẫn an trú trong chánh niệm và thường nhắc nhở các môn đệ: “Phàm là người xuất gia phải chân tu thật học, phải nhớ “Tu không học là tu mù, Học không tu là đãy sách”, hơn nữa bổn phận người tu sĩ là “Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bổn hoài” làm được như vậy mới là đền ơn chư Phật, tổ thầy, cha mẹ và Đàn-na tín thí.”
Hơn 60 năm hành đạo, trải qua bao gian khổ nhọc nhằn kể từ khi mới xuất gia cho đến lúc ra làm Phật sự, Ni trưởng thường nghĩ rằng: “Sự gian truân trên đường hành đạo là Nhân, mà sự an vui giải thoát mới là kết quả của người tu Phật”. Với đức tánh giản dị hiền hòa, khiêm cung rất mực, Ni trưởng rất được mọi người kính mến.
Những tưởng Ni trưởng còn trụ thế lâu hơn nữa để được lợi đạo ích đời, nào ngờ đâu vô thường đã đến, Ni trưởng đã xả báo an tường vào lúc 4 giờ ngày 21 tháng Chạp năm Nhâm Ngọ (2002). Trụ thế 87 tuổi, hạ lạp 60 năm.
Tiếc thay! Chùa xưa còn đó cảnh cũ còn đây, mà người xưa nay đã không còn, chỉ còn lại phảng phất hương giới đức lan bay.