Thông điệp cao cả của Đức Phật về Thiền Vipassanā chính là con đường thoát phiền não khổ đau. Để truyền bá thông điệp này đến với quảng đại quần chúng, Tăng sĩ hay Nữ tu Phật giáo trong thời đại công nghệ 4.0 cần phát huy các phương thức hoằng pháp bằng phương tiện truyền thông qua báo chí, tạp chí Phật giáo (sách, online, website) qua văn bản, âm thanh, hình ảnh, hướng dẫn trực tuyến, v.v… giúp truyền bá Phật pháp nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng, đem lợi ích cho số đông người dùng internet ngày càng gia tăng.
Hội chúng Tỳ-kheo-ni (bhikkhunī) được thành lập sau vài năm thành lập Tăng đoàn Tỳ-kheo, nhằm mở ra cơ hội tu tập cho bất kỳ phụ nữ nào muốn thăng tiến đời sống tâm linh, quyết định xuất gia, chuyên tâm dồi trau Giới, Định, Tuệ, nỗ lực hành thiền Vipassanā. Qua đó, vị thế của phụ nữ trong xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ V trước Công nguyên đã được nâng lên, không còn hạn hẹp trong phạm vi của “người con gái, người vợ, hay người mẹ” trong một gia đình nhỏ bé. Đức Phật đã khai mở con đường giải phóng, đem đến giá trị quý báu trên con đường Thiền Vipassanā đạt đỉnh tối thượng, cao hơn cả vua chúa, Bà-la-môn, phá bỏ sự lệ thuộc, sự bất công đối với người nữ.
Hơn nữa, việc thành lập hội chúng Tỳ-kheo-ni giúp dễ dàng gia tăng các tín nữ Phật tử. Việc có một Tỳ-kheo-ni với tư cách là một vị thầy tâm linh trở nên thuận tiện cho nhiều phụ nữ khi họ có thể tiếp cận học hỏi và công khai thảo luận về những vấn đề mà họ đang gặp phải. Các trường hợp đạt được các tuệ minh sát và giải thoát của các Tỳ-kheo-ni được ghi lại trong Trưởng lão Ni kệ – Therīgāthā qua hình ảnh các nữ tu Phật giáo cũng như các nữ cư sĩ thực hành Vipassanā, trở thành thánh nhân.
Trong bài này, người viết đề cập một số điểm có liên quan nhằm làm rõ nữ giới thực hành Vipassanā là rất cần thiết, làm nổi bật ý nghĩa thiết thực, giá trị siêu việt của Phật giáo. Thiền Vipassanā đã, đang và sẽ giúp nhân loại nói chung và người nữ nói riêng được vượt khổ, giải thoát. Như vậy, việc truyền bá Thiền Vipassanā qua báo chí truyền thông ngày nay càng trở nên thiết yếu.
1. Địa vị nữ giới trong xã hội Ấn Độ thế kỷ V trước Công nguyên
Xã hội và tôn giáo tại Ấn Độ trong thế kỷ V trước Công nguyên không chấp nhận người nữ làm tu sĩ, càng không thể cho người nữ xuất gia, dạy đạo và lãnh đạo quần chúng. Người nữ thời bấy giờ chỉ là bóng mờ và phụ thuộc vào người nam, không được học hành, không được làm các ngành nghề trong xã hội, không được tham gia chính trị, tôn giáo, thương mại, như Đạo Khổng của văn hóa Trung Hoa, khép kín người phụ nữ sau cánh cửa gia đình với các nguyên tắc “tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tùy”. Ở Ấn Độ, người phụ nữ khi sinh được con trai thì có thêm vị thế trong gia tộc, ngược lại, nếu sinh con gái thì mất hết quyền lợi trong gia tộc và thêm gánh nặng, vì phải lo việc gả chồng và sắm của hồi môn (phong tục cưới chồng). Hơn nữa, xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, cũng như Trung Hoa, đều xem con trai là rường cột trong việc nắm giữ giềng mối tổ tông và lo việc tế tự thờ cúng, nên luôn “trọng nam khinh nữ”. Do đó, nếu một người phụ nữ không sinh được con trai thì người chồng có thể cưới vợ khác và có thể trục xuất họ ra khỏi gia đình.
Thời đó, Ấn Độ phân chia rõ rệt bốn đẳng cấp trong xã hội, thế nên sự đau khổ, bất công đang tràn ngập khắp các nẻo đường, từ thành thị đến thôn xóm. Ai là người thắp lên ngọn đèn trí tuệ để xua tan màn đêm tăm tối của vô minh, tham ái đang phủ vây nhân loại? Các nhà triết lý, lịch sử ghi lại 62 vị, trong đó có 6 vị giáo chủ nổi tiếng đương thời nhưng chỉ bàn luận về những vấn đề siêu hình, về bản thể vũ trụ, về sự hữu biên hay vô biên của thế giới, về sự hiện hữu hay không hiện hữu của linh hồn, về sự có tưởng hay không có tưởng sau khi chết, về sự đoạn diệt hay không đoạn diệt bản ngã, tất cả đều không tìm ra lối thoát cho nhân loại. Một trong những đóng góp cao quý của Đức Phật cho nhân loại là chỉ ra con đường thanh lọc tâm bằng thực hành thiền Vipassanā, vượt qua khổ đau, đạt thành giác ngộ, giải thoát trong kiếp sống này. Con đường ấy không chỉ dành cho những vị Tăng sĩ xuất gia, mà còn được phép cho hàng nữ giới gia nhập Tăng đoàn, có thể sống đời sống viễn ly như nam giới. Ngoài ra, còn có cận sự nam, cận sự nữ được hướng dẫn thực hành và tạo nên Tứ chúng hùng mạnh.
2. Thành lập hội chúng Nữ tu trong Phật giáo
Sự thiết lập hội chúng Tỳ-kheo-ni vào năm hoằng pháp thứ năm của Đức Phật đã mở ra con đường hoàn toàn tự do tôn giáo cho phụ nữ. Việc thành lập hội chúng nữ tu trong bối cảnh truyền thống xã hội Ấn Độ bấy giờ đã gây một sự xáo trộn vô cùng lớn lao, toàn diện trong xã hội, phong tục, văn hóa, chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng đương thời. Theo giáo sử ghi lại, với sự quyết tâm xuất gia, Di mẫu Mahā Pajāpati Gotamī đã cùng 500 công nương dòng họ Sākya (tộc cha) và Koliya (tộc mẹ), tự cạo tóc, mặc y nhuộm vàng, đi chân đất, đến thành Tỳ-xály khẩn thiết cầu xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia. Sau khi Thế Tôn từ chối ba lần, Đại Đức Ānanda bạch thưa Đức Phật và được Ngài xác nhận về Giáo Pháp mà Như Lai truyền dạy không phân biệt giai cấp, chủng loại, vì mọi chúng sanh đều có khả năng giác ngộ như nhau, Đại Đức Ānanda tiếp tục thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người nữ chịu khó tu tập và hành đạo tinh tấn như người nam thì họ có thể chứng được Thánh quả giải thoát ngay trong kiếp hiện tại không?” Đức Thế Tôn trả lời: “Nếu người nữ tinh tấn trong chánh niệm, được hướng dẫn hành trì đúng đắn trong chánh niệm, thì họ vẫn có đủ khả năng đắc quả vị tối cao như người nam1”. “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu vậy thì con xin phép Ngài cho phép Di Mẫu cùng tất cả người nữ được xuất gia, nếu họ muốn sống đời phạm hạnh”. Đức Phật nhận lời thỉnh cầu tha thiết của Ānanda với điều kiện là người nữ khi xuất gia phải nghiêm chỉnh chấp hành “tám pháp kỉnh”, tức tám điều cung kính, được quy định riêng cho Ni giới2. Trên thế giới, Phật giáo vươn cao tại Ấn Độ và là trang sử vàng đánh dấu một cuộc cải cách trong lịch sử nhân loại, đưa giá trị nữ giới ngang tầm nam giới về tôn giáo và tâm linh giải thoát. Từ đó, Thế Tôn đã tạo cơ hội cho tất cả nhân loại nói chung và cho người nữ nói riêng bước trên con đường giải thoát, lối sống chánh niệm tỉnh giác, chuyên tâm thiền Vipassanā do chính Ngài giác ngộ.
Từ đó, trong Phật giáo có bốn hội chúng là hội chúng Tỳ-kheo (bhikkhu), hội chúng Tỳ-kheo-ni (bhikkhunī), hội chúng Nam cư sĩ (upāsaka), hội chúng Nữ cư sĩ (upāsikā). Có bốn hạng người chói sáng trong đời, đó là: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, thông minh, được huấn luyện, không sợ hãi, nghe nhiều, trì pháp, thực hành pháp, tùy pháp, chói sáng Tăng chúng3. Đức Phật muốn tất cả bốn nhóm đệ tử của mình có kiến thức tốt về Giáo pháp, được đào tạo tốt trong thiền định.
Cũng vì lẽ đó nên khi du sĩ ngoại đạo Vacchagotta hỏi Đức Thế Tôn rằng ngoài các Tỳ-kheo, Ngài có Tỳ-kheo-ni đệ tử nào đã đoạn trừ các lậu hoặc, chứng đạt thắng trí ngay trong hiện tại không, Đức Phật trả lời: “Này Vaccha không phải chỉ một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những Tỳ‐kheo‐ni, đệ tử của ta, đã đoạn trừ các lậu hoặc, với thượng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát và tuệ giải thoát4”. Rõ ràng chúng ta đã có thể thấy, trong giáo lý đạo Phật, người nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự, ngang hàng với nam giới về khả năng tu tập và thành đạt mục tiêu Niết-bàn.
3. Thiền Vipassanā và nữ tu Phật giáo
Thiền Phật giáo có thể được phân thành hai loại tổng quát là thiền định (samatha) và thiền quán (Vipassanā). Tu tập thiền định, mục đích là để tập trung sức mạnh nội tâm, tạo sự an tịnh nơi tâm trí và phát triển sự tập trung sâu để đạt các tầng thiền. Trong thời của Đức Phật, các đạo giáo khác cũng tu tập thiền định, nhưng tất nhiên thiền định trong Phật giáo cũng có điểm khác với thiền định ngoài Phật giáo. Đặc biệt, Thiền Vipassanā chỉ có trong Phật giáo do chính Đức Phật chứng ngộ và chỉ dạy lại cho hàng tứ chúng đệ tử.
Tu tập Thiền Vipassanā, hành giả quan sát năm uẩn để hiểu được đặc điểm của chúng là vô thường, đau khổ và vô ngã. Có rất nhiều thay đổi xảy ra trong cuộc sống có thể gây ra đau khổ như thay đổi trong tình huống cuộc sống, sức khỏe, các mối quan hệ về tinh thần, vật chất, tâm lý. Về cơ bản, đau khổ là do phát sinh những điều không mong muốn hoặc mong muốn không được như ý. Theo tâm lý Phật giáo, những thay đổi không mong muốn chỉ gây ra một nửa đau khổ. Nửa còn lại được thêm vào do không hiểu biết bản chất thực sự của vấn đề. Khi một người bình thường phải đối mặt với sự thay đổi và thay đổi không mong muốn, tâm trí của họ không được chuẩn bị để hiểu bản chất vô thường và quan sát sự thay đổi với sự bình thản. Khi đau khổ phát sinh, nó có thể trở nên trầm trọng hơn vì giả định sai lầm cho rằng mọi vấn đề sẽ xảy ra như ý và tồn tại vĩnh viễn.
Tại sao Thiền Vipassanā có tầm quan trọng trong sự tu tập và sự tồn vong của Phật pháp?
Mục đích xuất gia trở thành Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni là sự chứng đắc Niết-bàn, giải thoát khỏi khổ đau, sanh tử luân hồi; con đường đưa đến chấm dứt khổ đau chính là thực hành thiền Vipassanā.
Đức Phật Thích Ca ra đời, sáng lập nên một tôn giáo bình đẳng, vị tha. Ngài phủ nhận giai cấp bất công, đem chế độ bình đẳng để đãi ngộ mọi hạng người trong xã hội. Và từ đó, Ngài đã mở ra cho nữ giới con đường giải phóng, không những thoát khỏi một thân phận đen tối thấp hèn, lệ thuộc vào nam giới, mà còn thoát khỏi ngục tù bản ngã nhỏ hẹp để vươn lên Chân lý, Niết-bàn.
Tôn chỉ của giáo lý Phật giáo là hướng dẫn người tu tập đạt đến mục đích tối hậu – giác ngộ, giải thoát. Mọi chúng sanh nếu phát tâm tu tập, hành trì chánh pháp đều được đạt đến kết quả cứu cánh như nhau.
Như vậy, trong Phật giáo, người nữ không những được bình đẳng trên phương diện xã hội, giáo đoàn mà còn được quyền bình đẳng trong các phương diện giải thoát tâm linh. Đó là trường hợp của hoàng hậu Khemā đã đắc quả A-la-hán trước khi xuất gia; là trường hợp của Isidāsi, một người phụ nữ đau khổ có bốn đời chồng, sau khi xuất gia sống đời giải thoát, đã diễn tả trong một bài thơ về nỗi niềm sung sướng vì thoát khỏi một cách vinh quang ba điều khó chịu là “cối, chày, người chồng bất chính” và cuối cùng vị này hân hoan tán thán pháp lạc tuyệt vời của người đắc quả Vô sanh:
“Tôi đã giải thoát khỏi sống và chết, Tôi đã cắt đứt sợi dây luân hồi5”.
Trưởng lão Ni kệ ghi lại những nỗi thống khổ mà người phụ nữ phải gánh chịu, kể cả những người còn trẻ có gia đình nhưng bị chồng đánh đập, phụ bạc hoặc không quan tâm. Nhiều câu chuyện thuật lại hoàn cảnh đáng thương của những người mẹ có con chết, đành phải tìm sự an ủi nơi Ni viện cũng như trường hợp các phụ nữ thuộc giới quý tộc, giai cấp Bà-la-môn, buôn bán, hoặc làm các nghề thủ công. Trong số họ có cả những người phụ nữ rất nổi tiếng như Ambapālī.
Những bài kệ cho thấy người phụ nữ có khả năng chứng đắc quả vị giải thoát, điều này là chắc chắn. Bao lâu nay, theo quan niệm cổ truyền, mọi người trong xã hội Ấn đều nghĩ rằng trên phương diện tinh thần và đạo đức, người phụ nữ thấp kém hơn người nam, thì nay Phật giáo cho mọi người thấy người nữ có đủ khả năng giác ngộ giải thoát.
Các vị Trưởng lão Ni chứng Thánh quả rất nhiều, chói sáng cả thế gian, nhưng chỉ có khoảng 73 vị để lại tiểu sử. Đây là con số tượng trưng, vì một vị Ni có thể có đến 500 đệ tử Ni đều chứng Thánh quả như Tỳ-kheo-ni Paṭācārā. Chư Ni xuất gia trong nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh đặc biệt. Có vị sang cả quý phái như hoàng hậu Khemā, công chúa Sundarī Nandā. Cũng có người xuất thân từ kỹ nữ như Vimalā (chỉ vì trong thời quá khứ, Ngài cũng từng là Tỳ-kheo-ni, nhưng do mắng một Tỳ-kheo-ni khác là “Đồ kỹ nữ”, nên đến đời này phải chịu quả báo đó). Khi chứng Thánh quả, giải thoát hết nhân duyên tái sanh, và cũng hóa giải luôn kết quả bất thiện của một câu ác khẩu, Vimalā nói:
“Mọi khổ ách đoạn tận,
Cả cõi trời cõi người,
Quăng bỏ mọi lậu hoặc,
Ta mát lạnh tịch tịnh.”
Như vậy, giáo pháp của Đức Phật như dòng suối mát, đón nhận tất cả chúng sanh đến uống no nê, tắm rửa làm sạch sẽ và tươi mát thân tâm.
Mùa an cư thứ 28 tại Kỳ Viên, Phật hóa độ cho một cô gái tiện dân tên là Prakriti (Bát-cát-đế). Sau khi được Trưởng lão Ni Khema hướng dẫn, Prakriti tu tập tinh tấn, đắc quả A-la-hán, vượt cả Ngài Ānanda. Đó là nguyên nhân dẫn Prakriti đến trước Phật. Tin đó cũng khiến Vua Ba-tư-nặc đến hỏi Phật: Việc các phụ nữ dòng Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi xuất gia thì tạm được, nhưng một cô gái Chiên-đà-la xuất gia là làm ô nhục cả giới tu sĩ. Đức Phật đã dùng thí dụ sau để giải quyết vấn đề: Có hai người, một thuộc Sát-đế-lợi, một thuộc Chiên-đà-la cùng tắm trong dòng nước. Sau khi tắm sạch lau khô và xức nước hoa thì thân thể cũng sạch thơm như nhau. Thái độ bình đẳng và lòng từ của Đức Phật, cũng như của chư vị Trưởng lão Ni, luôn là tấm gương sáng muôn đời.
Nữ cư sĩ tên Mātikamātā người hộ độ cho 60 vị Tỳ-kheo trong mùa an cư kiết hạ, tuy lớn tuổi nhờ duyên lành quá khứ nên sau khi được vị Tỳ-kheo hướng dẫn tu tập thiền quán về 32 thể trược, thực hành trong 7 ngày, nữ cư sĩ đã thành tựu các tầng thiền và tiếp tục thực hành thiền quán, bà đã chứng đắc tuệ giác thấy thực tướng của năm uẩn là vô thường, khổ, vô ngã, và Bà thành tựu Thánh quả A-na-hàm.
(còn tiếp)
TS. NS. Diệu Hiếu (ĐSHĐ-126)
- Mahāpajāpati Gotami, Tăng Chi Bộ Kinh (Gotamī Sutta, AN).
- Tiểu Phẩm, Tạng Luật (Vinaya Cūḷavagga).
- Kinh Chói Sáng Tăng Chúng, Tăng Chi Bộ Kinh (Sobhana Sutta AN).
- Đại kinh Vacchagotta, Trung Bộ Kinh.
- Trưởng lão Ni kệ, bài thứ 11.