Xuân đến xuân đi xuân lại về, một kiếp chúng ta đã qua bao xuân thì rồi nhỉ? Thời gian vùn vụt trôi, vạn vật chuyển mình thay áo mới và biến đổi không dừng. Thế gian vội vàng đón xuân, mùa xuân của đất trời của tạo hóa, lồng đèn, cờ hoa, thông Noel, xanh vàng đỏ trắng, đủ sắc màu, nhà nhà, người người tất bật cho những công việc cuối năm, mong chu tất để đón một mùa xuân Giáp Thìn bình an, ấm áp, trong sự cố gắng nỗ lực ở thời buổi kinh tế hiện tại đang suy thoái. Nhưng với ý chí và nghị lực bất khuất kiên cường, con người chưa bao giờ chịu thua, khuất phục trước sự khó khăn từ ngoại cảnh, mọi việc rồi cũng qua thôi. Chúng ta hãy vững tin vào chính mình và cuộc sống, dẫu muôn vàn biến động đổi thay nhưng nơi đây ý chí, niềm tin và nghị lực sẽ đẩy lùi tất cả. Rồi ai ai cũng hưởng được trọn vẹn mùa xuân ấm áp từ trái tim, xuân ngoại, xuân tại lòng người, mùa xuân không bao giờ mất, chỉ là ta có biết vượt qua, để trở về mùa xuân trong chính mình hay không? Vẫn có những con người biết tạo mãi mùa xuân. Ngày xuân đang tới chúng ta là người con Phật cùng nhau ôn lại những thi thơ tuyệt vời của các vị Thiền sư nhân mùa xuân ngoại cảnh nhắc nhớ chúng ta trở về mùa xuân miên viễn nơi chính mình. Ba bài thơ xuân đạo nổi tiếng của ba vị Thiềns ư chúng ta không thể bỏ qua, Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận, Thiền sư Mãn Giác, Sơ Tổ Trúc Lâm Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cùng nhau đọc lại thâm ý đạo mầu qua ngôn ngữ của Thiền sư nhân mùa xuân Giáp Thìn 2024.
Tổ Hoàng Bá Hy Vận (黃蘖希運) là một vị Thiền sư lỗi lạc, liễu đạo vào đời nhà Đường, thời vua Đường Đại Tông ở Trung Hoa. Ngài sinh khoảng năm 766-783, tịch vào khoảng năm 847-859 thời Vua Đường Tuyên Tông, sinh tại Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, xuất gia trụ núi Hoàng Bá thuộc huyện Phúc Thanh, tỉnh Phúc Kiến ngày nay, pháp danh là Hy Vận. Về sau đi tham học với Tổ Bách Trượng được ngộ đạo. Ngài là một trong những đệ tử xuất sắc của Tổ Bách Trượng Hoài Hải và là thầy truyền pháp của Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, người sáng lập ra tông Lâm Tế, vang danh cho đến ngày nay. Dòng Lâm Tế là một trong những dòng Thiền được truyền vào Việt Nam, vào thời nhà Minh, nhà Thanh, thời Chúa Nguyễn Hoàng ở Việt Nam. Vì thế, đa số Tăng Ni ở Việt Nam đều mang dòng Thiền Lâm Tế, ngoại trừ một số ít tông Tào Động và những dòng Thiền khác. Thật ra, những dòng Thiền Vô Ngôn Thông và Thảo Đường, Lâm Tế và Tào Động cũng đều bắt nguồn từ dòng Thiền Tào Khê của Lục Tổ Huệ Năng. Như Thiền sư Vô Ngôn Thông cũng là môn đệ của Tổ Bách Trượng Hoài Hải là đời thứ tư của Tào Khê Lục Tổ Huệ Năng. Thiền sư Thảo Đường là đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu. Ngài thuộc thế hệ thứ chín của Tào Khê Lục Tổ Huệ Năng.
Sau khi liễu đạo, Tổ Hoàng Bá về chân núi Thứu Phong, huyện Cao An, tỉnh Hồng Châu (nay thuộc tỉnh Giang Tây) để ẩn tu và hoằng hóa. Vì mến núi Hoàng Bá, nơi Ngài đã từng xuất gia lúc còn trẻ tại tỉnh Phúc Kiến, nên Ngài đã đặt tên cho ngôi chùa là Hoàng Bá, và núi Thứu Phong cũng được mọi người đương thời biết đến là núi Hoàng Bá. Sau này có cư sĩ Bùi Hưu, một vị quan thời bấy giờ được cử về Hồng Châu để làm việc, nên thường lui tới, thỉnh mời, và học hỏi với Tổ. Sau khi Tổ Hoàng Bá thị tịch vài năm, cư sĩ Bùi Hưu đã viết lại những gì chính ông được nghe và học với Tổ thành hai tập sách, một gọi là “Truyền Tâm Pháp Yếu” và hai là “Uyển Đăng Lục.” Nhờ vậy ngày hôm nay chúng ta mới biết được những lời dạy thâm thúy của Tổ Hoàng Bá. Ngoài hai quyển sách “Truyền Tâm Pháp Yếu” và “Uyển Đăng Lục” ra, Tổ Hoàng Bá còn để lại cho hậu thế một bài kệ thất ngôn tứ tuyệt rất nổi tiếng để sách tấn đồ chúng, trong đó có bài:
Hán văn:
塵勞迥脫事非常,
緊把繩頭做一場;
不是一番寒徹骨,
爭得梅花撲鼻香?
Hán-Việt:
“Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Khẩn bả thằng đầu tố nhất trường;
Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Chẩn đắc mai hoa phốc tỷ hương?”
Nghĩa:
“Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường;
Chẳng trải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương?”
Chuyện tu hành, vượt khỏi trần lao không hề dễ, chẳng khác chúng ta lội dòng nước ngược.
“Chỗ trụ người đời ta chẳng trụ.
Chỗ yêu người đời ta chẳng yêu.”
(Thiền sư Thạch Đầu)
Cũng ăn, cũng ngủ, cũng sinh hoạt, nhưng người tu chúng ta phải biết kiểm thúc, vừa đủ ít muốn. Phật dạy “thiểu dục tri túc” (ít muốn biết đủ) “tam thường bất túc” (ba việc, ăn, mặc, ở, không cần nhiều). Xem nhẹ thân này, trọng việc đạo đức nhân nghĩa.
“Nắm chặt đầu dây giữ lập trường”
Đầu dây, ẩn dụ chỉ cho cốt lõi của đạo pháp là tâm thanh tịnh này, nhắm thẳng một đường mà đi, lập trường kiên định tu tập trở về với tâm Phật của chính mình.
“Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn.
Trích diệp tầm chi ngã bất năng.”
(Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật,
Chọn lá tìm cành ta chẳng kham).
(Chứng Đạo Ca – Thiền sư Huyền Giác)
Ngài khuyên chúng ta muốn vượt thoát sanh tử trần lao thì cần phải có sự quyết tâm, ý chí thống thiết, và sức công phu tham Thiền miên mật. Ví như hoa mai nếu không trải một thời gian giá lạnh của mùa đông thì sẽ không thể trổ hoa thơm ngát khi xuân về.
Người tu chúng ta nếu không trải qua sự nỗ lực công phu chuyển hóa, những sự khó khăn gian khổ “xương lạnh buốt” thì đâu dễ thấy được đạo. Nhớ đến tích truyện Tổ Huệ Khả đứng cả đêm dưới tuyết, lạnh buốt xương, chặt cánh tay cầu đạo từ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Đâu có gì mà dễ dàng, chúng ta muốn điều gì cũng phải có cái giá của nó, có sự đánh đổi cả mồ hôi, công sức, thậm chí đến nước mắt…
Đây là bài kệ của một vị chân tu giác ngộ dùng để khuyến tấn môn đồ của Ngài trực thẳng chân tâm, vượt thoát sinh tử trần lao, đến bờ giác ngộ giải thoát.
Bài thơ xuân thứ hai của Thiền sư Mãn Giác 滿覺, (1052-1096) là một thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền sư Quảng Trí và truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bản Tịnh.
Đại sư Mãn Giác tên tục là Nguyễn Trường. Cha là Hoài Tố. Thiếu thời, Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín. Sau đó, Hoài Tín dâng biểu xin xuất gia, học với Thiền sư Quảng Trí và vân du khắp nơi, được vua Lý Nhân Tông cùng hoàng hậu hết sức kính nể và dựng chùa Giáo Nguyên thỉnh Sư làm trụ trì. Năm 1096, cuối tháng 11, Sư gọi chúng đọc bài kệ, sau này được biết dưới tên Cáo tật thị chúng.
Thiền sư Mãn Giác từng dạy đồ chúng trở về với mùa xuân trong chính mình, bởi xuân ngoại cảnh thì có đến đi sanh diệt, theo sự sanh diệt, chúng ta sẽ khổ, nhân ngoại cảnh mà trở về mùa xuân không bao giờ mất, mùa xuân chẳng bao giờ tàn trong mỗi người.
(Còn tiếp)
Hải Thuần Bảo Hải (ĐSHĐ-125)