Thành kiến theo quan điểm Phật giáo
Thành kiến là cái nhìn cố định gắn liền với các phương diện tiêu cực, sai lầm về một con người và ta giữ mãi hình ảnh quá khứ của người đó trong tâm, cho nên quan hệ xã hội giữa ta và người đó có vấn đề. Thành kiến thường có hệ quy chiếu là “cái tôi”, những gì ta cảm nhận được tôn vinh là đúng còn cái nhìn của người khác cho là sai. Đức hạnh, tính cách của ta được xem là ưu điểm, trong khi đức hạnh của người khác ta xem là có tì vết.
Có những thành kiến xuất phát từ nỗi đau trong quá khứ, dẫn đến sự ám ảnh trong hiện tại và tương lai. Có những thành kiến xuất phát từ sự ngộ nhận, do được truyền từ thế hệ này, sang thế hệ khác, và tồn tại như là một mối đe dọa trong tâm của con người. Có những thành kiến do thiếu hiểu biết làm cho ta hiểu lầm một người nào đó, đôi lúc không hề có sự quen biết với chúng ta.
Dù thành kiến xuất phát từ động cơ nào và nguyên gì thì đó là một lăng kính màu đen. Người có thành kiến giống như đeo kính đen, nhìn người khác chỉ có một màu đen duy nhất. Tâm con người luôn thay đổi theo hoàn cảnh, nhưng điều kiện giáo dục, kinh nghiệm bản thân, sự nỗ lực của mỗi người cũng không làm ta thay đổi cái nhìn lúc đầu về một người nào đó, dường như giữa ta và người này có những khó khăn, trở ngại không thể nào giải quyết.
Theo quan điểm Phật giáo, thành kiến là mối đe dọa của hạnh phúc, nó tồn tại ở đâu thì nỗi khổ niềm đau xuất hiện ở đó, rất nhiều người sống với thành kiến trong quá khứ. Khi ta có thành kiến với một người, ta lôi kéo bạn bè và người thân về phía chúng ta và cùng có thành kiến với người đó. Đôi lúc, người mà ta có thành kiến lại có thể gỡ bỏ được khúc mắt, trở ngại với ta còn ta thì không làm được điều đó, những hiểu lầm đó vẫn còn mãi trong tâm chúng ta.
Có những thành kiến xuất phát từ quá khứ, nên khi gặp người này lần đầu và những lần sau không có cảm giác tốt đẹp nhưng ta không giải thích được vì sao. Điều này có thể giải quyết được, vì ta và người đó ít có cơ hội tiếp xúc, chỉ gặp một hai lần, việc ai nấy làm. Tuy nhiên, thành kiến này tồn đọng trong tâm chúng ta sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống. Có những thành kiến với người thân, khi ta có cơ hội tiếp xúc ta cảm thấy có khoảng cách, không thích, đó là những trở ngại trên con đường tu tập của ta.
Theo Đức Phật thành kiến là một hình thái chấp ngã. Có những thương tổn đến cái tôi làm ta có những bế tắt rất lớn. Con người có xu hướng hoàn hảo, cái gì tốt thì nhớ lâu còn cái gì xấu trở thành nỗi ám ảnh. Đức Phật dạy: Ta chuyển hóa cảm xúc bằng cách quán chiếu ba hình ảnh. Thứ nhất, giống như người điêu khắc tượng, với tay nghề trạm trổ sâu, cạn có thể tạo ra nhiều hình thù khác nhau trên mặt đá. Nếu không bị sự tàn phá của con người có thể tồn tại mấy mươi năm. Thành kiến trong tâm ta cũng vậy, nếu không nỗ lực chuyển hóa, vượt qua nó có thể ăn sâu trong tâm chúng ta làm cho ta khổ đau. Cũng giống như những điêu khắc trên đá sẽ để lại những tì vết trong tâm.
Thứ hai, quán chiếu từ những hình thù trên cát do người tắm biển tạo ra, rồi cũng sẽ bị những cơn sóng biển cuốn trôi đi, trở thành mặt cát phẳng lì. Có một số người, có nỗi buồn trong tâm, sau đó có những tác động tích cực làm cho người này xóa bỏ được thành kiến, đôi khi muốn nhớ lại những thành kiến cũng không nhớ được, thành kiến giữa hai người được xóa bỏ. Thứ ba, người họa sĩ vẽ những bức tranh cảnh mà mình thích, có thể tồn tại hàng trăm năm, nhưng người họa sĩ này không thể nào vẽ được trên mặt nước vì mỗi động tác vẽ trên nước làm cho màu vẽ hòa vào nước sẽ biến mất.
Đức Phật dạy rằng xóa bỏ thành kiến, những cố chấp trong tâm giống như động tác vẽ trên mặt nước, không để lại hình thù bóng dáng. Cố chấp càng nhiều thì nỗi khổ càng tăng lên theo tỉ lệ thuận. Các hành giả khi tu tập phải tập quán chiếu rằng tâm ta giống như mặt nước, đôi khi có những cơn sóng gợn trên mặt nước nhưng rồi mặt nước cũng phẳng lặng, mọi thứ là ảo ảnh, không chấp bất cứ việc gì. Từ việc phân tích thành kiến trên ba phương diện tôn giáo, sân hận và si mê giúp cho ta nhận ra chúng, được sinh ra như thế nào để từ đó ta có cách giải quyết dễ dàng hơn.
Các dạng thành kiến
Thứ nhất là thành kiến về tôn giáo. Thành kiến tôn giáo có hai dạng. Dạng thứ nhất là các quan niệm tiêu cực giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, và thường dẫn đến xung đột tôn giáo. Đối với những tôn giáo cực đoan có xu hướng loại trừ những tôn giáo còn lại. Những cuộc Thánh chiến tôn giáo diễn ra nhằm tranh giành những cái mới, và đem lại nhiều nỗi khổ niềm đau cho con người. Những tòa án tôn giáo được lập ra để xét xử những điều cho là trái với Thánh kinh, được bác bỏ hay bị xử lý nghiêm khắc, làm chậm sự phát triển khoa học ở châu Âu.
Đạo Phật từ xa xưa chủ trương thế giới này là sự cộng hưởng, không ai tồn tại độc lập, xem xã hội là mối tương quan nên không lấy mình là hệ quy chiếu. Đạo Phật không có chủ trương giải quyết vấn đề một cách cực đoan, mà giải quyết theo con đuờng trung đạo. Người Phật tử dù là Tăng, Ni, hay tại gia đều có thể sống hòa bình với tôn giáo bạn. Trong lịch sử chưa hề có Thánh chiến nhân danh đạo Phật hay những cuộc chiến tranh nhằm giành lấy vị trí độc tôn cho chân lý.
Thứ hai của thành kiến tôn giáo là những định chế xã hội, do những người sáng lập xã hội, đặt ra nhân danh Thượng đế làm cho những người bị bất công trong xã hội không dám lên tiếng. Cải cách hay sửa đổi dưới hình thức này hay hình thức khác. Ấn Độ xưa phân làm 4 giai cấp: giai cấp vua chúa làm việc chính trị và quân sự, phát triển quốc gia. Giai cấp Bà-la-môn làm việc liên quan đến tôn giáo, giáo dục và phát triển xã hội. Giai cấp thương gia và giai cấp cùng đinh phục vụ cho giai cấp cao hơn.
Định chế xã hội nhằm phân công lao động, đây là điều cần thiết để làm cho nguồn máy xã hội hoạt động tốt hơn. Các giai cấp cao như Bà-la-môn dựa vào thần linh để bốc lột, áp bức bất công và làm cho những người khác không dám lên tiếng, chấp nhận số phận an bài. Con người theo Đức Phật là phát triển nhất về tư duy trong các loài động vật nói chung. Muốn trở thành một Đại Giác Ngộ hoặc trở thành các vị Thánh, điều đầu tiên phải là một con người. Theo đức phật muốn giác ngộ trước hết phải là con người, không thể làm Thần hoặc Thánh dưới hình thức các con vật. Đạo Phật đề cao con người và nhân cách hóa mọi loài, cho rằng mọi loài chúng sinh đều có thể thành Phật nên kêu gọi mọi người tôn trọng lẫn nhau.
Vấn đề thứ hai là thành kiến có gốc rễ từ sân hận, nó làm con người mù quáng, tàn ác, vô lương tâm, mất đạo đức và để lại nhiều hậu quả xấu cho cuộc đời và với tha nhân nói chung. Ngày xưa, cũng vì thành kiến của các hoàng tử dòng họ Thích ca với vua Lưu Ly, nên mới tạo ra sự tàn sát của vua Lưu Ly với dòng họ Thích ca. Thành kiến của giới quý tộc dòng họ Thích ca làm cho vua Lưu Ly mù quáng không dễ gì tháo gỡ được, đến Đức Phật cũng không hóa giải.
Trong kinh Dược Sư hình ảnh của hai vị Bồ-tát giúp ta vượt qua được thành kiến giải quyết được nỗi khổ niềm đau đó là vị Nhật Quang Biến Chiếu và vị Nguyệt Quang Biến Chiếu là hai đệ tử của Phật Dược Sư. Nhật và nguyệt là mặt trời và mặt trăng. Khi mặt trời mọc thì trăng lặn, khi trăng mọc thì mặt trời lặn. Mỗi khi mặt trăng và mặt trời gặp nhau dẫn đến hiện tượng Nguyệt thực hoặc Nhật thực đều dẫn đến tác hại mùa màng hay sức khỏe.
Điểm chung của hai vị Bồ-tát này là “quang biến chiếu”. Tinh hoa của mặt trời và mặt trăng là ánh sáng, ánh sáng chiếu soi không phân biệt bất kỳ vật nào. Đối với những người có cá tính, đối lập với nhau mà có điểm chung thì thành kiến sẽ sớm được giải quyết. Đó là cái nhìn phong phú về tiến trình hỗ trợ cho nhau giữa những người có thành kiến với nhau nhưng có cùng điểm chung.
Phong thủy Trung Quốc dựa trên ngũ hành tương sinh và tương khắc. Tương sinh dẫn đến sự trường tồn, phát triển lâu dài còn tương khắc dẫn đến sự loại trừ nhau. Nếu tồn tại song song dẫn đến ảnh hưởng cho nhau, nhưng đồng thời cũng hỗ trợ cho nhau, giống như đất và nước, nước nhiều thì làm đất tan rã còn đất nhiều thì nước bị lấp đi, không có nước để sống. Nước mà không có đất gây lụt lội, ảnh hưởng đến đời sống con người, nên hai hình ảnh này hỗ trợ cho nhau tạo ra cuộc sống của con người và mọi loài, có đất, có biển, có cây cối,…
Phần lớn ta có cách ứng xử theo kiểu quy nạp, khi bị ứng xử tiêu cực thì người này sẽ có ám ảnh, không có thân thiết. Ta nhìn người khác bằng lăng kính tiêu cực, thói quen này làm cho ta không thể sống hài hòa với người khác. Sự quy nạp này làm cắt đứt các mối quan hệ thân thích, dù sau này ta gặp nhiều người tốt nhưng ta không thể sống hòa nhập. Trong kinh Pháp Cú Phật dạy xóa bỏ thành kiến, hận thù:
Hận thù diệt hận thù.
Đời này không có được.
Từ bi diệt hận thù.
Là định luật muôn đời
Xóa bỏ hận thù bằng lòng từ bi là một quá trình lâu dài, tiếp nhận và sống được với nó làm cho ta có được sự an lạc, hạnh phúc lâu dài. Như vậy, thực tập từ bi xóa bỏ hận thù giúp cho ta bỏ được thành kiến với người nào đó trong quá khứ. Trong một số kinh Phật dạy: Ta quán chiếu thành kiến giống như rác, khi gặp rác ta liền quét đi đừng để rác trong tâm. Mỗi giây phút trôi qua, để rác trong tâm thì tâm sẽ hôi thối theo từng phút giây, làm cho cuộc sống không còn an lạc, hạnh phúc. Khi quán chiếu về tương quan xã hội giữa ta và người, là chuyện đã rồi, là quá khứ đừng nên sống với quá khứ, vì làm như thế ta sẽ đi ngược lại với quy luật của cuộc đời.
Thứ ba, thành kiến có gốc rễ từ sự si mê bao gồm các hình thức mê tín dị đoan, niềm tin tôn giáo thiếu giá trị chân lý. Mỗi khi niềm tin đó được thiết lập thì nỗi sợ hãi kèm theo. Chính vì vậy, con người lý giải rằng thà làm dư thừa chứ không nên thiếu, đó là một sự an ủi cho sự sợ hãi đang tồn tại trong tâm chúng ta. Người Ấn Độ xưa cho rằng: Nhất thể tam thần, tức là một vị thần có ba phương diện: khai sinh, tồn tại, bảo vệ và hủy diệt cho chúng ta cảm giác sợ hãi, nếu không tôn thờ vị thần ấy sẽ bị trừng phạt. Những thiên tai trong kinh Vệ Đà xưa cho rằng do ta làm cho thượng đế nỗi giận. Khi thành kiến gắn liền với tôn giáo thì nỗi sợ hãi đi kèm theo, khi đó ta không đủ mạnh dạn tháo mở nó để có được cuộc sống an lành, hạnh phúc và bình an.
Xóa bỏ thành kiến
Để xóa bỏ thành kiến do thiếu hiểu biết ta cần phải có“bi, trí và dũng”. Bi trước hết là yêu thương hạnh phúc của chính mình, không nên nô lệ vào thượng đế và thần linh. Ta cần trỗi dậy tình thương yêu chân chính, đạo đức, giá trị nhân phẩm mà con người có thể đóng góp cho xã hội và tha nhân. Từ yêu thương chính mình ta sẽ có lối sống cao thượng, tôn trọng mọi người và xã hội.
Mặc khác khi có “dũng” ta mới can đảm bỏ những mê tín, sai lầm. Trong lễ Quy y Tam Bảo, tất cả Phật tử đều được hướng dẫn không được nhận thượng đế và thần linh làm thầy, điều này không nhằm đưa Đức Phật lên vị thế độc tôn vì Ngài thấy rõ thần linh không hề có mặt. Nếu có là do con người phong cho và nhân quả của họ phụ thuộc vào chính con người, đôi khi các thần cứu được chính mình, không thoát khỏi sinh-lão-bệnh-tử. Do vậy, ta cần tự giải thoát khỏi nỗi khổ đau bằng nỗ lực của chính mình không nên lệ thuộc vào thần linh nhờ đó ta sống bình an, hạnh phúc hơn.
Là Phật tử ta nên lấy giáo pháp Phật làm thầy, giá trị đạo đức làm nền tảng để không còn các niềm tin mê tín, không bị thành kiến khi thấy vị tu sĩ nào đó có lối sống không đúng theo lời Phật dạy, có những chủ trương hành động không đúng. Những niềm tin mê tín làm cho ta sợ hãi. Phật dạy khi trí tuệ phát triển thì nỗi sợ hãi sẽ tan biến nhanh. Ta cần thờ các thần trong các chùa vì những thiện nhân và thiện duyên, các phước báu sẽ gia hộ ta trong cuộc đời.
Theo Phật giáo phát triển được trí tuệ thấy rõ duyên khởi thì nỗi sợ hãi sẽ tan biến, thành kiến không tồn tại. Giống như người mù xem voi, vấn đề đặt ra chấp vào chân lý mình mô tả của mình là sự thật còn mô tả của người khác là sai, đi ngược lại chân lý nói chung, thành kiến này do cái nhìn chủ quan của ta. Thực tập xóa bỏ thành kiến làm cho ta có cuộc sống an lạc, hạnh phúc, không chán ghét cuộc đời này.
Trần Ngọc Thảo (ĐSHĐ-006)
Sc Quảng Thảo diễn đọc