“Mộng lý minh minh hữu lục thú”.
Mộng theo nghĩa thông thường là giấc mơ, giấc mộng, chiêm bao. Khi chúng ta ngủ say thì thường nằm mộng, trong mộng thì có người, có vật, có vui, có buồn… Có khi nằm thấy ác mộng thì kêu la, hoảng sợ. Nhưng khi tỉnh giấc thì mộng liền tan biến, đây là giấc mộng ngắn hạn, do ngủ say nên mới mộng mị.
Còn trong thế gian này, khi chúng ta chưa giác ngộ thì chỉ như một trường đại mộng. Trong trường đại mộng này chúng sanh tùy theo nghiệp lực, nhân duyên, phước báu mà tái sanh trong sáu nẻo luân hồi.
Lục thú hay còn gọi là lục đạo. “Đạo” là hướng đi, nẻo về, “thú” là xu hướng, đi tới. Pháp số này được tất cả các Kinh luận Phật giáo dùng để chỉ đích xác cho cái vòng lẩn quẩn của sinh tử luân hồi. Sáu nẻo luôn luôn là “sáu nẻo luân hồi”, tức là sáu thế giới, sáu môi trường sống của các loài chúng sanh còn phải nhận chịu những quả báu đau khổ, bị ràng buộc bởi phiền não, bị che phủ bởi vô minh, chưa được an vui, giác ngộ, giải thoát gồm có: Trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Trong cuộc sống hàng ngày vì si mê cho nên, chúng sanh tạo tác biết bao nhiêu nghiệp. Khi tâm tham lam muốn trộm cắp của phi pháp, hoặc giết người để chiếm đoạt tài sản, hoặc sưu cao, thuế nặng… đó là cảnh giới địa ngục.
Hoặc có của ăn của để mà người nghèo khổ, đói khát đến xin thì chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ, không muốn cứu giúp, bố thí… đó là cảnh giới ngạ quỉ.
Hoặc khi tâm ta thiện, lành làm nhiều việc tốt phóng sanh, cứu trợ đồng bào lũ lụt, bố thí, cúng dường… đó là cảnh giới chư Thiên.
Thiền sư Bổn Tịnh có bài kệ rằng:
Âm:
“Thị sinh như tại mộng
Mộng lý thật thị náo
Hốt giác vạn sự hưu
Huờn đồng thùy thời ngộ
Trí giả hội ngộ mộng
Mê nhân tín mộng náo
Hội mộng như lưỡng ban
Nhất ngộ vô biệt ngộ
Phú quí dữ bần tiện
Cánh diệc vô biệt lộ”.
Nghĩa:
“Thấy cuộc sống như mộng
Trong mộng thật là ồn
Chợt giác muôn việc hết
Lại đồng tỉnh cơn mộng
Người trí nhận biết mộng
Kẻ mê tin mộng ồn
Biết mộng như hai việc
Một ngộ không ngộ khác
Giàu sang cùng nghèo hèn
Lại cũng không đường khác”.
Cuộc sống này như một giấc mộng, tuy con người vẫn sinh hoạt đi, đứng, nói năng, làm việc nhưng nếu làm tất cả trong tâm si mê, điên đảo, vọng tưởng thì như người đang sống trong mộng, mờ mờ, mịt mịt. Vì sống trong mộng cho nên, có phải, quấy, được, mất, hơn, thua, tranh chấp nhau đủ thứ… nên thật là ồn ào, huyên náo. Đến khi đầy đủ nhân duyên được thiện tri thức khai thị, giác ngộ lý vô sanh, nên đã tỉnh cơn mộng. Người trí biết mộng là giả dối, không thật chỉ do tâm si mê, điên đảo mà hóa thành mộng mị. Còn kẻ mê thì tin giấc mộng, tin vào mọi hành động, tạo tác trong mộng là thật. Khi biết mộng không thật thì liền tỉnh cơn mộng, chợt giác nên muôn việc trong giấc mộng đều tan biến, không còn. Dù là người giàu sang hay kẻ nghèo hèn cũng là ở trong mộng mà thôi, không có gì khác cả.
“Giác hậu không không vô đại thiên”.
Khi giác ngộ rồi thì cả tam thiên đại thiên thế giới thảy vắng bặt, đều không còn. Tam thiên đại thiên thế giới cũng không ngoài tâm mà có, bởi lẽ “vạn pháp duy tâm”, nghĩa là các pháp do tâm biến hiện, nên khi giác ngộ rồi thì tâm, cảnh như như, vắng lặng, cho nên, tam thiên đại thiên thế giới thảy đều không còn.
Tam thiên đại thiên thế giới:
Nói đến “đại thiên thế giới” thì lấy “tiểu thế giới” làm đơn vị căn bản để tính. Một tiểu thế giới là một hệ thống thế giới gồm có: ở trung ương là núi Tu di, xuyên suốt qua biển lớn, đứng sừng sững trên địa luân. Dưới địa luân là kim luân. Dưới nữa là thủy luân. Dưới thủy luân là phong luân. Bên ngoài phong luân thuộc về hư không.
Núi Tu di phần giữa thì nhỏ, phần trên và phần dưới đều lớn, cõi trời Tứ Vương ở bốn mặt sườn núi, cõi trời Đao Lợi ở trên đỉnh núi. Chung quanh chân núi được bao bọc bởi bảy lớp núi và bảy lớp biển nước thơm- cứ một lớp biển thì một lớp núi, xen kẽ nhau. Ngoài lớp núi vàng có biển mặn. Ngoài biển mặn có núi Đại Thiết Vi, vây tròn như lan can, hình trạng gần giống như phần dưới của cái cối xoay.
Tầng hư không ở phía trên các cõi trời Tứ Vương và Đao Lợi, có các cõi trời Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại, đó là sáu cõi trời Dục giới. Trên nữa là mười tám cõi trời Sắc giới và bốn cõi trời Vô sắc giới. Trên không của biển mặn, ở mỗi phương Đông, Nam, Tây, Bắc, đều có vô số tinh vân, trong đó có vô số thái dương hệ, vô số thế giới. Tinh vân ở trên không phía Đông của biển mặn được gọi là Châu Đông Thắng Thần, phía Nam gọi là Châu Nam Thiệm Bộ, phía Tây gọi là Châu Tây Ngưu Hóa, phía Bắc gọi là Châu Bắc Câu Lô. Cả thảy chín núi, tám biển, bốn châu, sáu cõi trời Dục giới như thế, lại thêm ba tầng trời của cõi Sơ thiền bao trùm ở trên nữa, là một tiểu thế giới. Hợp lại 1.000 tiểu thế giới như thế, với ba tầng trời của cõi Nhị thiền bao trùm ở trên, là một tiểu thiên thế giới. Hợp lại 1.000 tiểu thiên thế giới với ba tầng trời của cõi Tam thiền bao trùm ở trên, là một trung thiên thế giới. Hợp lại 1.000 trung thiên thế giới, với chín tầng trời của cõi Tứ thiền và bốn cõi trời Không bao trùm ở trên, là một đại thiên thế giới.
Đại thiên thế giới, trong đó có ba bội số ngàn, cho nên, cũng được gọi là “ba ngàn đại thiên thế giới”(tam thiên đại thiên thế giới) hay ngắn gọn hơn là “ba ngàn thế giới “(tam thiên thế giới).
Như vậy, tam thiên thế giới hay tam thiên đại thiên thế giới, không phải gồm có 3.000 thế giới, mà là (1.000×1.000×1.000)=1.000.000.000, tức một tỉ thế giới.
Trong Như Tịnh Ngữ Lục quyển Thượng có bài kệ rằng:
Âm:
“Đả phá hắc tất dũng
Thập phương không khoát khoát
Bạo lôi nhất hát biến thông
Xế điện thiên cơ đốn phát”.
Nghĩa:
“Đập bể thùng sơn đen
Mười phương trống thông thống
Một hét sấm nổ biến thông
Ngàn cơ điện chớp chóng phát”.
Vô minh đã phá trừ, đập vỡ được khối nghi bấy lâu nay. Khi giác ngộ rồi thì thấy mười phương thế giới vắng lặng, thảy đều không còn, trống thông thống. Và cũng từ nơi tâm thể thanh tịnh mà phát ra trăm ngàn dịu dụng, làm lợi lạc tha nhân. Qua đây chúng ta thấy người đã giác ngộ thì thấy cả mười phương thế giới trống thông thống, tam thiên đại thiên thế giới đều vắng bặt, thảy đều không còn.
(còn tiếp)
Hải Trung (ĐSHĐ-130)