Tôi muốn cảm ơn những người lãnh đạo của Sakyadhita đã cho tôi cơ hội được phát biểu hôm nay. Tôi cũng muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đối với các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và các bạn đồng tu.
Tựa đề bài phát biểu của tôi là Cuộc đời và Di sản của Tỳ kheo Ni Dhammananda với vai trò là một nhà lãnh đạo của Phụ nữ Phật giáo tìm kiếm sự trao quyền. Tôi là một học trò tận tâm của bà trong hơn hai mươi năm, thật vinh dự và là niềm hân hạnh của tôi khi được chia sẻ câu chuyện về sự dũng cảm và lòng từ bi của bà với các bạn hôm nay. Hầu hết những gì tôi chia sẻ với các bạn đều đến từ cuốn sách mới nhất của tôi.
Đối với những ai trong số các bạn chưa biết về bà thì Tỳ kheo Ni Dhammananda là người đã bất chấp quy ước để trở thành người phụ nữ đầu tiên được thọ giới đầy đủ theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Thái Lan. Ni sư Dhammananda giải thích cho quyết định của bà như sau: “Tôi đi khắp thế giới để các cháu tôi sẽ tự hào về người bà của chúng, người đã mở đường cho chúng bước đi đầy tự hào với tư cách là những người phụ nữ Phật giáo.”
Lễ thọ giới của Ni sư Dhammananda đã mở ra một kỷ nguyên mới về bình đẳng và truyền cảm hứng cho một thế hệ phụ nữ Thái Lan mới được thọ giới. Ngày nay, có khoảng 285 Tỳ kheo Ni hoạt động rộng khắp trên 30 trong số 77 tỉnh của Thái Lan.
Tỳ kheo Ni Dhammananda đã cống hiến cuộc đời mình để củng cố Ni đoàn Tỳ kheo Ni Nguyên thủy ở Thái Lan và châu Á. Nhờ hoạt động không biết mệt mỏi của bà trong việc khôi phục dòng nữ tu sĩ Nguyên thủy ở Thái Lan và châu Á, năm 2019, BBC đã đưa bà vào danh sách 100 người phụ nữ có ảnh hưởng và quan trọng nhất trên thế giới.
Bà là một nhà hoạt động xã hội tích cực vì Phật giáo và môi trường. Năm 1987, bà đồng sáng lập Sakyadhita cùng với Ni sư Ayya Khema và Ni sư Karma Lekshe Tsomo. Bà đã đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng hôm nay, tôi muốn tập trung vào tầm quan trọng của bà với vai trò là một nhà lãnh đạo tôn giáo theo chủ nghĩa nữ quyền đối với những phụ nữ Phật giáo đang tìm kiếm sự trao quyền. Như tôi đã đề cập, hai phẩm chất khiến sự lãnh đạo của bà khác biệt đó chính là dũng cảm và từ bi. Trước tiên, tôi xin nói về nền tảng học thuật/hoạt động của bà, sau đó là con đường đến với việc thọ giới của bà, và kết thúc bằng tầm nhìn của bà về những nhà lãnh đạo nữ Phật giáo trong tương lai.
Nền tảng học thuật / hoạt động
Tôi không hề nói quá về giá trị của những đóng góp của Ni sư Dhammananda với tư cách là một học giả Phật giáo theo chủ nghĩa nữ quyền từ rất sớm. Bà đã thiết lập nền tảng học thuật đáng tin cậy mà phong trào phục hưng Tỳ kheo Ni hiện nay đang dựa vào.
Ni sư Dhammananda, trước đây được biết đến với thế danh là Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh, là một học giả Phật giáo được quốc tế công nhận và là một nhà nữ quyền Phật giáo tham gia hoạt động xã hội, người đã giảng dạy Phật học trong hai mươi bảy năm tại Đại học Thammasat ở Bangkok. Bà đã dành nhiều năm nghiên cứu các văn bản gốc để xác nhận rằng trong cuộc đời của mình Đức Phật đã truyền giới cho phụ nữ. Bà cho biết: “Đức Phật là nhà nữ quyền đầu tiên vì Ngài là nhà lãnh đạo tôn giáo đầu tiên trên thế giới thừa nhận rằng phụ nữ và nam giới bình đẳng về mặt tinh thần. Khi Đức Phật cho phép phụ nữ được truyền giới, Ngài tuyên bố rằng họ có thể giác ngộ. Đó là câu nói vàng. Đức Phật nói: ‘Họ có thể tự mình tận mắt chứng kiến’”.
Ni sư Dhammananda đã có một bước ngoặt lớn vào đầu sự nghiệp của mình, năm 1983, khi bà chuyển từ một học giả sang một nhà hoạt động. Bà đã có bài thuyết trình về tương lai của Tỳ kheo Ni Nguyên thủy ở Thái Lan tại trường Harvard Divinity, vì bà được công nhận là người có quyền thế về chủ đề này. Một hạt giống đã được gieo tại hội nghị. Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh bắt đầu tham gia nhiều hơn vào sự vươn lên của Tỳ kheo Ni tại Thái Lan.
Trước hội nghị, bà đã có đầy đủ thông tin về Phật giáo và hoàn cảnh khốn khổ của các Tỳ kheo Ni, nhưng theo lời bà nói thì bà “không vui khi là một học giả ngồi trong tòa tháp ngà, tránh xa sự hỗn loạn của thế giới”. Tại Harvard, lần đầu tiên bà tiếp xúc với chủ nghĩa nữ quyền phương Tây. Bà nói: “Tôi đã nghe về chủ nghĩa nữ quyền nhưng chưa bao giờ được trải nghiệm. Tôi được truyền cảm hứng khi ở cạnh khoảng bốn mươi nhà nữ quyền mạnh mẽ, một vài người trong số họ có thái độ tức giận và hiếu chiến. Một người phụ nữ đã từng bị bỏ tù nhiều lần đến mức bạc cả tóc. Đó là một trải nghiệm đầy cảm xúc đối với tôi; Tôi đã bị sốc trước những câu chuyện khổ đau của những người phụ nữ đó”.
Tuy nhiên, bà nói: “Tôi vẫn mâu thuẫn về những nhà nữ quyền hiếu chiến, họ rất tức giận. Tôi đồng cảm với mục đích của họ nhưng không muốn tức giận như họ. Trong văn hóa Thái Lan, chúng tôi không đối đầu hay làm nhục bất kỳ ai trước công chúng. Đặc biệt là phụ nữ. Phụ nữ châu Á rất khó lên tiếng – để chống lại hiện trạng. Nếu tôi cư xử như những nhà nữ quyền phương Tây, tôi sẽ không bao giờ đạt được bất cứ điều gì”.
Ni sư Dhammananda muốn tham gia nhiều hơn vào cuộc đấu tranh để truyền giới cho phụ nữ thành Tỳ kheo Ni, nhưng bà lo lắng về phần đau khổ. “Nếu chúng ta gánh quá nhiều thứ trên vai, chúng ta sẽ đau khổ và khi chúng ta như vậy, chúng ta sẽ không giúp ích cho bất kỳ ai”. Đó là lúc bà quyết định quay trở lại với cội nguồn Phật giáo của mình. Bà nói: “Để đối mặt với bất kỳ vấn đề nào, bạn phải có cội nguồn tâm linh của mình – nó giống như một cái giếng mà bạn múc nước không bao giờ cạn. Phật giáo là một sức mạnh to lớn, một sức mạnh thực sự to lớn”.
Ni sư Dhammananda luôn nói rằng trước tiên bà là một Phật tử và sau đó mới là một nhà nữ quyền. “Nhờ được đào tạo và hiểu biết về Phật giáo, tôi đã trở thành một nhà nữ quyền tốt hơn. Tôi muốn tham gia, nhưng theo cách của Phật giáo, với lòng yêu thương-sự tử tế, không ghét những người không đồng tình với tôi. Hiện giờ với tư cách là một nhà nữ quyền, tôi không đấu tranh chống lại các cá nhân, tôi đấu tranh chống lại sự thiếu hiểu biết.”
Sau khi tu tập với Ni sư Dhammananda trong hơn hai mươi năm, tôi đã hiểu rằng cốt lõi thông điệp của bà là phụng sự. Chúng ta phải phụng sự và chúng ta phải hành động. Đó là định nghĩa của bà về lòng từ bi. Chỉ quan tâm thôi là chưa đủ, chúng ta phải hành động. Năm 2011, bà đã thành lập một chương trình đào tạo Phật pháp kéo dài mười tuần cho các nữ tù nhân tại Nhà tù Nakon Pathom có tên gọi là “Tự do Tinh thần trong tù”. Chương trình này vẫn tiếp tục cho đến hiện nay. Bà là một nhà hoạt động vì môi trường và ngôi chùa của bà là một ngôi chùa sinh thái mẫu mực với chính sách không rác thải, tái chế và tái sử dụng 100%.
Con đường tiến đến Thọ giới
Ni sư Dhammananda không bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc thọ giới cho đến giữa độ tuổi năm mươi. Vào thời điểm đó, bà là một học giả Phật giáo được quốc tế công nhận và là giáo sư nữ quyền tham gia hoạt động xã hội, người đã giảng dạy Phật học trong hai mươi bảy năm. Ngoài ra, bà còn là một người nổi tiếng, bà đã dẫn một chương trình truyền hình Phật giáo nổi tiếng trong bảy năm trước khi thọ giới. Bà cũng đã xuất bản hơn 100 cuốn sách và đã kết hôn trong ba mươi năm với ba người con trai đã trưởng thành.
Bà kể một câu chuyện tuyệt vời về cách bà đưa ra quyết định thọ giới. Một ngày nọ, khi đang chuẩn bị cho chương trình truyền hình của mình, bà nhìn vào gương và nghe thấy một giọng bằng tiếng Anh nói: “Tôi phải làm điều này trong bao lâu?” “Bạn đã từng nhìn thấy tôi”, bà nói. “Mặc trang phục phù hợp với bộ móng tay được chăm sóc hoàn hảo. Tôi đeo nhiều đồ trang sức và trang điểm. Vào thời điểm đó, tôi vô cùng cô đơn và muốn làm điều gì đó có ý nghĩa hơn trong cuộc đời của mình”.
Mở đầu bài nói chuyện, tôi đã đề cập đến hai phẩm chất lãnh đạo quan trọng khiến Ni sư Dhammananda khác biệt với tư cách là một nhà lãnh đạo nữ quyền về Phật giáo. Hai phẩm chất đó là sự dũng cảm và lòng từ bi. Tôi muốn nói về sự dũng cảm trước.
Ni sư Dhammananda đã phải đến Sri Lanka để thọ giới vì Thái Lan, nơi có 90% dân số theo đạo Phật, không cho phép thọ giới. Vào thời điểm bà thọ giới Sa di Ni (novice ordination) vào năm 2001, có khoảng 300.000 nam tu sĩ ở Thái Lan mà không có phụ nữ nào được thọ giới. Khi bà trở về quê hương Thái Lan, bà phải đối mặt với làn sóng chỉ trích gay gắt trên báo chí Thái Lan, những người gọi bà là nhà sư nổi loạn và bà nhận được những email đầy thù hận. Mọi thứ khó khăn đến mức bà đã ngừng đọc báo trong hai năm. Bà nói: “Ngoài mẹ tôi ra, tôi thực sự đứng một mình”. Xuyên suốt những tấn công cá nhân đó, Ni sư Dhammananda không đáp trả bằng sự tức giận hay thù hận; bà đối mặt với những người đối nghịch với mình bằng sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm. Bà thậm chí còn thách thức những người chỉ trích bà sau lưng, hãy đến chùa và nói chuyện trực tiếp với bà, nhưng họ không bao giờ làm vậy.
Về lòng dũng cảm, Ni sư Dhammananda cho biết: “Mặc dù mọi người nghĩ tôi dũng cảm, nhưng tôi có một quan điểm khác. Cam kết xuất gia của tôi xuất phát từ nền tảng học vấn. Tôi đã nghiên cứu văn bản và hiểu được tầm quan trọng của cộng đồng bốn phương như Đức Phật đã thiết lập. Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm cá nhân để hoàn thành ý nguyện của Đức Phật. Tôi không thấy mình đặc biệt dũng cảm khi xuất gia, tôi coi đó là bổn phận của mình. Tôi đã cảm thấy dũng cảm khi đứng một mình trong một đám đông các nhà Sư nam vào năm 2001, những người từ chối cấp phép cho sự thọ giới của phụ nữ, đi ngược lại ý nguyện của Đức Phật.”
Phẩm chất lãnh đạo thứ hai mà tôi muốn nói đến là lòng từ bi. Năm 2000, với tư cách là một nữ cư sĩ, Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh đã đến Đài Loan để thọ giới Bồ tát tại gia. Điều này minh họa cho cam kết của Ni sư Dhammananda trong việc chăm sóc người khác bằng lòng từ bi. Theo lời của bà: “Khi thọ giới Bồ tát, bạn không còn chỉ nghĩ đến bản thân mình nữa, mà đang làm việc vì người khác, chăm sóc xã hội và thế giới. Bà đã từng nói: “Trái tim của Bồ tát là lý tưởng cho Phật giáo gắn kết với xã hội”.
Tôi xin lùi lại một chút và giải thích rằng để hiểu được hành trình của Ni sư Dhammananda, chúng ta phải hiểu được tầm ảnh hưởng của mẹ bà, Voramai Kabilsingh, người là Tỳ kheo Ni hiện đại đầu tiên ở Thái Lan. Ni sư Dhammananda đã từng nói: “Mẹ tôi là người đưa ra luật lệ; bất cứ điều gì bà yêu cầu, chúng tôi đều làm”. Vào ngày 2 tháng 5 năm 1956, Voramai Kabilsingh, chán ngán việc chờ đợi các nhà sư cho phép mình được xuất gia, nên đã cạo đầu và xin tám giới từ thầy của mình là Pra Pronmuni, Phó Trụ trì chùa Wat Boovornnives. Ni sư Voramai đã chọn mặc một chiếc áo choàng màu vàng và tự gọi mình là Nakbuad, “một người đã xuất gia”. Năm 1960, bà thành lập chùa Songdhammakalyani, tu viện nữ giới nơi Ni sư Dhammananda hiện đang là Trụ trì.
Năm 1971, Ni sư Voramai đã đến Đài Loan, nơi bà được thọ giới đầy đủ trong dòng truyền thừa Dharmaguptaka và trở thành Tỳ kheo Ni Thái Lan hiện đại đầu tiên. Trong trường hợp của bà, vì Tăng đoàn và xã hội Thái Lan coi việc bà thọ giới là theo Đại thừa chứ không phải Nguyên thủy, nên họ không phản đối mạnh mẽ.
Một người khác có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của Ni sư Dhammananda là cha bà. Bà tuyên bố rằng ông là người theo chủ nghĩa nữ quyền đầu tiên mà bà từng gặp. Bà nói: “Ông thực sự đã giải phóng tôi khỏi những khuôn mẫu truyền thống về phụ nữ bằng cách khuyến khích tôi làm bất cứ điều gì tôi muốn.” Là một thành viên của quốc hội, Korkiat Shatsena đã dành phần lớn cuộc đời mình để sống và làm việc với người dân ở tỉnh Trang, miền Nam Thái Lan. Ông là một chính trị gia tận tụy đã giành chiến thắng trong ba cuộc bầu cử liên tiếp. Chính quyền quân sự không thích ông vì đã lên tiếng chống lại Chính phủ và ông đã bị bỏ tù vài lần.
Khi Ni sư Dhammananda được thọ giới, bà đã ghi nhận công lao của cha mình vì đã dạy bà trở nên chính trực bất chấp mọi nghịch cảnh. “Tôi đã đi trên mảnh đất này với tư cách là một Tỳ kheo Ni Nguyên thủy đơn độc nhờ cha của tôi, người đã trở thành hình mẫu cho việc phản đối lại hệ thống. Tôi thừa hưởng ý thức trách nhiệm xã hội từ cha tôi và cam kết với lối sống tu hành từ mẹ tôi.”
Kết luận
Vào tháng 1, tôi đã đến Thái Lan để thăm Ni sư Dhammananda và đề nghị bà nói về tầm nhìn của bà về vai trò của các nhà lãnh đạo nữ Phật giáo trong tương lai. Bà nói: “Đây là thời điểm mà Sakyadhita có thể nói về vai trò đang thay đổi của phụ nữ với tư cách là nhà lãnh đạo Phật giáo. Chúng ta không còn nỗ lực để phục hồi Ni đoàn Tỳ kheo Ni nữa vì Ni đoàn đã được thiết lập. Bây giờ chúng ta cần suy nghĩ về cách nuôi dưỡng Ni đoàn và bước đi trên con đường đó một cách vững chắc.”
“Để lãnh đạo, phụ nữ Phật giáo cần phải trung thực, tử tế và có học thức. Họ phải là những người có tư duy phản biện, nhận thức được bối cảnh xã hội rộng lớn hơn mà họ đang sống để giải quyết những vấn đề phức tạp trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng của chúng ta.”
“Chúng ta cần nghĩ về bản thân mình không chỉ là những nhà lãnh đạo Phật giáo, mà còn phải nêu gương như những nhà lãnh đạo tôn giáo, nghĩa là chúng ta có thể vượt qua cả Kitô giáo, Phật giáo và Hồi giáo để thấy được sự cấp thiết của những gì thế giới cần.”
“Vai trò của chúng ta với tư cách là phụ nữ và là Phật tử là giải quyết một số câu hỏi trong xã hội mà chúng ta đang sống. Chúng ta đang nói chuyện với ai? Nếu chúng ta đang nói chuyện với thế hệ trẻ, chúng ta cần hiểu được tư duy của họ và hiểu bối cảnh xã hội của họ và những gì họ cần. Các mối quan hệ của chúng ta cần phản ánh bối cảnh mới mà chúng ta đang sống.”
| Tiểu sửCindy Rasicot là một nhà trị liệu tâm lý đã nghỉ hưu, giảng viên tâm linh và là tác giả của cuốn sách Sự Sống mới mẻ: Những lời dạy từ trái tim của Tỳ kheo Ni Dhammananda (This Fresh Existence: Heart Teachings from Bhikkhuni Dhammananda). Cuốn sách mô tả cuộc đời nổi bật của Ni sư Dhammananda và chia sẻ trí tuệ nhẹ nhàng của bà về cách sống một cuộc sống mạnh mẽ và từ bi hơn. Năm 2005, Cindy đã đến Thái Lan cùng gia đình, nơi bà gặp Tỳ kheo Ni Dhammananda – một cuộc gặp gỡ đã thay đổi cuộc đời bà mãi mãi. Bà đã viết về hành trình tâm linh của mình trong cuốn hồi ký từng đoạt giải thưởng, đó là Tìm kiếm người mẹ đáng kính: Cuộc hành trình tâm linh của một cô con gái đến Thái Lan (Finding Venerable Mother: A Daughter’s Spiritual Quest to Thailand). | 
Cindy Rasicot – Việt dịch: Như Nguyệt {ĐSHĐ-143}



 
                                    
















































