Hồ Tây là một danh thắng nổi tiếng của vùng đất kinh kỳ Thăng Long, thường được nhắc tới nhiều trong sử liệu, thơ ca. Trước đây khu vực chùa Kim Liên tọa lạc được gọi là gò Hành Cung hay còn gọi là gò Cung, dưới thời vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072), Vua cho xây cung Quan Ngư (xem cá) tại đây. Dưới thời vua Lý Thần Tông (1128 – 1138), công chúa Từ Hoa xin ra mở trại dâu, nuôi tằm cùng dân làng, sau đó đổi tên là trại Tầm Tang và xây cung Từ Hoa trên đất này.
Vài dòng sơ lược địa lý về nơi ngôi chùa Kim Liên, nơi diễn ra Nghi thức Dâng hương tưởng niệm Đức Thánh Tổ Ni Đại Ái Đạo và chư Ni tiền bối hữu công Phật giáo Việt Nam. Trong chương trình Đại lễ Tưởng niệm Đức Thánh Tổ Ni Đại Ái Đạo và chư Ni tiền bối hữu công Phật giáo Việt Nam do Phân ban Ni giới TP Hà Nội đăng cai tổ chức đã phần nào gợi lên tính hiếu kỳ của đại biểu tham dự đại lễ về ngôi cổ tự giàu giá trị lịch sử hào hùng của dân tộc.
Theo những tư liệu cổ, chùa Kim Liên được xây dựng từ cuối thời Trần, tuy nhiên đến nay không còn dấu vết nào còn lại từ thời Trần. Dấu vết, tư liệu lịch sử còn lại tại chùa cho thấy niên đại sớm nhất của chùa Kim Liên là tấm bia “Đại Bi tự bi ký” đặt ở bên trái Tam quan chùa được dựng dưới thời vua Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa nguyên niên (1443).
Là một ngôi chùa lớn trên đất Thăng Long, trải qua hơn 5 thế kỷ, chùa Kim Liên đã được trùng tu nhiều lần dưới các giai đoạn khác nhau. Năm 1638, Tam quan cùng tòa Tiền đường được trùng tu sửa chữa, được dựng thêm hai tòa Thiêu hương và Thượng điện, được làm thêm 2 pho Hộ Pháp, 8 pho Kim Cương và 3 pho tượng Thánh. Năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736), dưới thời vua Lê Ý Tông, nhân dân phường Nghi Tàm phát tâm trùng tu lại chùa. Năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), dưới thời vua Lê Hiển Tông, dựng tháp Phổ Quang thờ Hòa thượng Quảng Giác.
Năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), chúa Trịnh Sâm đã cho mang gỗ từ chùa Bảo Lâm về trùng tu chùa Đại Bi và đổi tên chùa thành Kim Liên. Theo tấm bia được dựng năm Quang Trung thứ 4 (1792), chùa bị hư hại nặng, “dân cả phường chữa lại ngôi chùa và làm thêm căn Tiền đường, chi tiêu rất rộng”, ngoài ra trên thượng lương của chùa Hạ và chùa Thượng còn ghi lại thông tin.
Trong giai đoạn từ thế kỷ XIX trở về sau, chùa Kim Liên còn được trùng tu nhiều lần vào các năm: 1867, 1929, 1942, 1953, 1954. Đặc biệt từ năm 1980 cho tới năm 2000, chùa trùng tu tòa chính điện, xây thêm nhà Mẫu và nhà Tổ, nối mái của 3 tòa kiến trúc chính lại theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”.
Ngày nay, chùa Kim Liên vẫn giữ được những nét kiến trúc nghệ thuật cơ bản từ thời Tây Sơn, gồm có nhiều kiến trúc khác nhau. Cổng Tam quan của chùa được xây dựng một cách đặc biệt theo dạng “tam sơn, tứ trụ”, hiện nay chỉ còn lại duy nhất ở chùa Kim Liên. Bước qua cổng Tam quan là một khoảng sân rộng dẫn tới khu vực kiến trúc thờ tự chính nằm ở khu vực trung tâm.
Với giá trị lịch sử mà đặc thù, chùa Kim Liên là nơi ghi dấu công đức của chúa Trịnh và công chúa Từ Hoa. Công chúa đã dạy dân muốn tắm lấy tơ tằm, dệt vải từ lúc còn ở Cung Quan Ngư và trại Tằm Tang. Chùa có tượng thờ công chúa và chúa Trịnh cùng những pho tượng Phật. Nơi đây còn có tấm bia đá cổ xưa nhất Hà thành kể về công lao của chúa Trịnh. Tấm bia được chạm khắc đẹp mắt.
Trải qua biết bao thăng trầm, chùa vẫn giữ nguyên nét kiến trúc đặc trưng của thời phong kiến thể hiện sự uy nghiêm và tinh tế. Cổng chùa có hình Tam quan – Tứ trụ là một nét độc đáo của miền Bắc phản ánh sự kế thừa và phát huy nét đẹp truyền thống của dân tộc. Qua cổng chùa là sân vườn xanh mát, hoa thơm trải khắp lối đi. Càng đi sâu vào trong, kiến trúc chùa càng được xây dựng theo hình chữ Tam gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng hài hòa và thống nhất. Chùa có mái ngói 2 tầng, 8 nếp mái, gạch ngói chồng lên nhau tạo không gian thoáng đãng. Trụ gỗ chắc chắn, chạm khắc hoa văn cổ, rồng phượng, hoa lá… đẹp mắt. Đây là một kiệt tác nghệ thuật, thu hút nhiều người tới tham quan mỗi năm.
Vân Phàm
(Theo tổng hợp tạp chí du lịch Hà Nội) {ĐSHĐ-139)