Thần thức nghiệp ái đi thọ thân
Ái là tình thương của cha mẹ đối với con cái. Ái là tình yêu giữa vợ và chồng hay giữa bạn tình với nhau. Nó có cùng gốc nhưng khác nhau ở cách thức thể hiện. Tại sao nói bắt nguồn từ gốc, bởi vì trong kinh đức Phật nói: “Con người có mặt trong cuộc đời là chạy một cách tự nhiên theo sự cuốn hút của vòng ái. Một mầm sống mới được hình thành phải gồm bốn điều kiện”.
Thứ nhất là tinh cha, thứ hai huyết mẹ, thứ ba hai vợ chồng phải quan hệ với nhau trong thời gian mà người nữ thọ thai phù hợp với điều kiện. Thứ tư là khoa học không đề cập tới thần thức tái sanh, tức là khi con người xuất ra khỏi một thân xác nào đó, phải tìm một nơi để tái sanh, nơi này nghiệp cảm phải tương ứng với nhau. Ví dụ như giữa cha mẹ và đứa con trong tương lai phải cùng có họ hàng nghiệp. Chính từ họ hàng nghiệp này mới quyết định, tại sao trong một gia đình người này cao ráo, người kia nhỏ bé, v.v… Hoàn cảnh thuận lợi và hoàn cảnh không thuận lợi, tức là hoàn cảnh đạo đức nhân quả quyết định nơi mình sẽ sanh ra, nó tạo thành họ hàng nghiệp.
Đức Phật phân tích rõ hơn, đó là thần thức tái sanh chạy theo dòng ái. Nếu người mới mất, vừa xuất thần thức để đi tái sanh, sau này sanh ra là một người nam. Lúc bấy giờ, thần thức đó liên hệ đến người mẹ, nó nghĩ tới ái dục, cho nên nó lao vào. Ngược lại, nếu người tái sanh đó là người nữ thì nó liên tưởng ái dục với người cha, nó lao vào chỗ tái sanh. Chúng ta thấy trong thực tế, tình cha và đứa con gái, mẹ và đứa con trai có sự gần gũi hơn về phương diện tâm lý.
Nhưng mẹ thường gần gũi chăm sóc con nên tình mẫu tử giữa con gần gũi hơn cha. Có những trường hợp gà trống nuôi con thì cha lại chăm sóc nhiều hơn mẹ. Lúc bấy giờ, hoàn cảnh giáo dục, môi trường sinh thái, đời sống đạo đức của con người làm họ quên đi hết chất liệu từ lúc mình lao vào để đi đầu thai. Cho nên, chất liệu ái lúc đầu nó là ái một chiều, tức là người nữ ái cha, người nam ái mẹ nhưng khi lớn lên cảm nhận đó mất đi theo môi trường giáo dục mới, đó là sự chuyển hóa, chuyển hóa do môi trường của con người. Tình thương của cha mẹ dành cho con cái vượt lên trên tình của giới tính. Trong khi đó tình yêu giữa vợ và chồng, hay người bạn tình với nhau, đặt trên vị trí của giới tính, dĩ nhiên lòng ích kỷ cũng tăng lên. Ví dụ ta thương một người nào đó đắm đuối, nhưng thật ra ta thương mình nhiều hơn.
Tại sao nhà Phật nói thương mình thay vì ta thương người kia? Bởi vì một con người như vậy có những nỗi cô đơn thầm kín bên trong. Nó đòi hỏi nhu cầu cần phải kết bạn với một người khác. Người khác giới là điểm thu hút lớn nhất, giống như nam châm, cùng dấu thì đẩy, trái dấu thì hút. Nhu cầu tìm đến giới tính lại cao, ái kiếp con người lại lớn, do đó lòng vị kỷ được gia tăng, nuôi dưỡng trong tình yêu. Ai, ở một khía cạnh khác, được đặt trên nền tảng là mối quan hệ cha mẹ và con cái. Ái được chuyển hóa đi ở mức độ tương đối cao hơn, mặc dù có một phần vị ky, như cha mẹ nhìn thấy con mình bị tai nạn, đứa con bị thương tật gì đó thì nước mắt của ta sẽ dễ dàng rơi xuống, bản thân cảm thấy đau xót.
Nếu như mình có thể chia sẻ đau xót với người con thì sẵn sàng làm. Luật nhân quả không chia sớt được, tức là mình chỉ biểu cảm sự chia sớt đó thông qua ánh mắt, thông qua lời nói an ủi, thông qua cách thức ta vỗ về người đó. Tức là ta hứng lấy nỗi đau người kia khoảng 20%, 30% còn 70%, 80% còn lại nhân quả người đó người đó phải gánh chịu. Tình cha mẹ con cái cao nhưng bản chất vẫn mang tính vị kỷ. Cũng hoàn cảnh tương tự như vậy, nếu người đó là người dưng nước lã với ta, con cái của người khác, không phải là con của người thân, bỗng nhiên niềm cảm thông đó giảm xuống.
Ở những vùng chiến tranh đang diễn ra, vì chủ nghĩa yêu nước, vì chủ nghĩa anh hùng dân tộc, vì bảo vệ biên cương Tổ quốc, nơi nào cũng được tiêm vào những chất liệu đó, bao nhiêu người nằm xuống, bao nhiêu người đứng lên. Chúng ta nhìn thấy cảnh tượng người ta qua đời như vậy không ai rơi một giọt nước mắt nào. Nếu người đó là người thân của ta, hẳn có nhiều người âu sầu, ủ rũ, bồn chồn, cảm thấy khó chịu. Tình đó có một chất vị kỷ, nó giới hạn cho những người thân, cho những người mình thương nhiều nhất, cho những người thân gần hơn, thân xa hơn, cuối cùng mới ra bên ngoài.
Chữ ái được thể hiện trong nhiều mối quan hệ
Tình cảm cha mẹ dành cho con cái là một hình thức ái, nhưng nó được thăng hoa hơn. Ái luyến của tình yêu mang tính chấp thủ ghê gớm, ví dụ như bản chất của tình yêu là không chấp nhận chia sẻ với người thứ ba dù là hình bóng hay hành động thực tế. Ta muốn chiếm hữu người đó cho riêng mình. Khi ta đính hôn với người nào đó hoặc khi thương một người, ta muốn người đó là của mình, người khác không được can dự. Chính vì vậy, lễ thức hôn nhân giống như cách thức thông tin rằng từ nay về sau thuyền đã có bến. Nó là hình thức thể hiện sự ràng buộc về phương diện xã hội, gia đình. Ngược lại, khi tổ chức một lễ cưới linh đình, hai bên họ hàng, ông bà cha mẹ, bà con lối xóm đều biết mối quan hệ là vợ chồng của hai bên. Lúc bấy giờ những mối bất hòa nho nhỏ nếu không có ràng buộc xã hội về khế ước hôn nhân thì người ta dễ dàng chia tay nhau.
Gốc của chữ ái trong mối quan hệ cha mẹ con cái hay vợ chồng đều như nhau. Vợ chồng hay tình nhân cũng vậy nhưng cách thức thể hiện và giá trị của nó khác nhau. Những đứa con có thể bất hiếu với cha me, cha mẹ có thể không buồn bởi vì họ nghĩ đây là núm ruột của mình, cho nên dễ dàng tha thứ. Ngược lại, trong tình yêu lại khác, nếu một trong hai người đó phụ tình, thì tình yêu đó nồng nhiệt chừng nào hận thù cũng sâu sắc chừng đó. Hai người đó có thể về sau gặp nhau, không nhìn mặt nhau hoặc thấy mặt nhau thì lánh nhau, còn không thì nói xấu lẫn nhau, trả đũa bằng cách này bằng cách nọ. Ái luyến đó dẫn đến sự chấp thủ. Đụng đến sự chấp thủ đồng nghĩa chạm đến bản ngã. Chạm đến bản ngã là đụng tới tình cha mẹ, khó có thể tha thứ dễ dàng. Nhưng trong tình yêu thì sự đụng chạm này có biểu hiện khác.
Tình từ bi
Ngoài tình cha mẹ con cái, tình yêu thương, tình yêu giới tính, đức Phật còn giới thiệu thêm một loại tình nữa là tình từ bi. Lòng thương xót của ta đối với những người khác. Nhưng từ bi này khác với trạng thái tâm lý là mủi lòng, động lòng. Mủi lòng hay động lòng là hoạt động nhạy cảm, như ta là người dễ xúc cảm khi gặp một cảnh tượng nào đó dễ xúc động. Mủi lòng hay động lòng là hoạt động đặc biệt cảm tính của dòng cảm xúc. Tùy theo độ nhạy cảm, mủi lòng hay động lòng có thể khiến ta nghĩ cách này cách nọ. Đây là một chứng bệnh phiền não. Lòng từ bi thì khác, lòng từ bi đặt ra hai khuynh hướng rõ ràng, trong bản chất từ bi có hai dạng:
Thứ nhất là mang lại niềm vui cho người khác. Thứ hai là làm vơi đi nỗi khổ của người khác. Có những hành động, chúng ta nghĩ là nó xuất phát từ lòng từ nhưng thực chất là từ cảm tính. Ví dụ, ra ngoài đường thấy một người ăn xin, lạy lục van xin, xót ruột quá nên mình lấy tiền tặng cho người đó nhưng không biết rằng chiều đó anh lấy số tiền đi uống rượu, làm phiền toái cho những người khác, có thể tạo ra rắc rối. Như vậy, từ đồng tiền thương tâm của ta dẫn đến cơn nghiện rượu của anh kia, dẫn đến những tiêu cực phát sinh, kéo theo một chuỗi khổ đau.
Trường hợp trên không mang lại cho người ăn xin sự an vui, dứt khổ, bởi vì từ đồng tiền đó anh ta làm chuyện khổ đau. Có những hành động xuất phát từ mủi lòng sẽ rơi vào tình trạng không có được hai chất liệu vừa ban vui vừa dứt khổ. Nhà Phật khuyến khích con người nên vận dụng chất liệu của tình từ bi. Nhất là bậc cha mẹ có tình từ bi thì thật tuyệt vời.
Trong tình cha mẹ và con cái, chúng ta vẫn thấy còn phân biệt đối xử rất rõ. Ít có cha mẹ nào không phân biệt đối xử và dành tình thương cho con cái đồng đều. Vì vậy, người Phật tử khi làm cha làm mẹ, phải nuôi thêm chất liệu từ bi, tức là đặt tình từ bi vào trong những đứa con của mình một cách đồng đều. Như vậy, ta sẽ chia ra trách nhiệm ai làm việc gì, ai làm như thế nào, rồi nâng đỡ một cách đồng đều để cho những đứa con có thể vực dậy khả năng của họ và phát triển phù hợp với đời sống đạo đức.
Chuyền hóa tình giới tính thành tình từ bi
Đức Phật dạy tình từ bi vì tình từ bi giúp thăng hoa đời sống, cho nên chỉ có tình từ bi mới vượt ra khỏi hai tình thông thường trên. Tình từ bi không có phân biệt đối xử. Thứ hai, tình từ bi không cho phép về phương diện giới tính, nếu ta thương một người nào đó thì tình giới tính xuất hiện. Tình giới tính xuất hiện thì lòng vị kỷ lại cao, do đó chất liệu của từ bi sẽ mất. Có thể ta lẫn lộn giữa tình từ bi với tình yêu, nhưng có tình yêu thì sẽ mất tình từ bi. Tình từ bi là một dạng tình cảm của con người. Nó được thăng hoa và chuyển hóa một cách cao nhất, giá trị của nó đối với đời sống con người cũng cao.
Đức Phật luôn khuyên đệ tử xuất gia nên sống độc thân, để ta không dành tình yêu cho bất cứ người nào, chuyển hóa nó không phải ức chế nó, bởi ức chế sẽ phản tác dụng. Chuyển hóa tình giới tính trở thành tình từ bi, có nghĩa là ta đến với quần chúng Phật tử, với người lớn tuổi nhiều thì ta xem như mẹ cha, lớn hơn một chút thì xem như chú cô, nhỏ hơn nữa giống như em của mình trong gia đình. Như vậy, quan hệ giới tính sẽ bị rơi rụng, mất đi và nó chuyển thành một phục vụ, một thương cảm để giúp hết cho những người khác tùy hoàn cảnh, khả năng, môi trường, điều kiện của mình mà làm. Đó là lý do Sa- môn không lập gia đình. Thứ hai, đức Phật dạy, khuynh hướng thông thường của cuộc đời trở thành như một cái đà, và ta cứ chạy theo nó. Đầu tiên con người đi tái sanh là bị ái dục dẫn dắt, sau đó nó cuốn hút con người vào các hoạt động (tình yêu nam nữ, hôn nhân,…). Và con người cho rằng những hành động ấy là thông thường.
Con đường ngược dòng đối với người xuất thế
Người xuất gia đi ngược lại với dòng chảy của cuộc đời, không lập gia đình, chuyển hóa tình giới tính trở thành tình từ bi. Tình cha mẹ, con cái là hệ quả của tình giới tính, bây giờ chuyển hóa nó thành tình từ bi, cho nên người xuất gia là những người đi ngược đời. Những con người đi ngược đời có rất nhiều thách thức. Ngược đời như đức Phật mô tả: như dòng suối, dòng thác lũ chảy ào ào, căng thẳng, ta phải đi ngược lại dòng đó, vươn lên rồi bị hất xuống, bị đẩy xuôi theo dòng rồi lại vượt lên. Quá trình đi ngược đời không phải dễ.
Cách thức thông thường, ta đi ngược đời bằng hình thức vào chùa xuất gia, xa gia đình, xa bạn bè, xa hết tất cả những người thân. Những mối quan hệ mới được kiến tạo dựa trên tình từ bi. Con đường đi ngược dòng di chuyển thành tình từ bi là cả một quá trình thách thức ghê gớm. Biểu tượng của quá trình này không khác gì hình ảnh ngọn tháp. Tức là nó đào thải cho đến tột cùng và chỉ đến đích cuối cùng, nhìn lại ta mới có thể đánh giá đúng mức độ thách thức ghê gớm của quá trình công phu. Và điều cần nói ở đây: người xuất gia phải nuôi dưỡng, duy trì con đường này đến cuối cùng vì đó là bổn phận.
Người tại gia sử dụng tình từ bi ở nhiều mức độ khác nhau
Người tại gia có thể sử dụng tình từ bi ở nhiều mức độ khác nhau và nhẹ nhàng hơn. Ví dụ như họ làm công tác từ thiện xã hội, giúp đỡ những người già neo đơn, các trẻ cô nhi hay những người tàn tật. Bằng cách này bằng cách nọ, họ chia sẻ tình từ bi cho những người đó, tức là ta biến những người xa lạ trở thành những người thân. Nhưng nó giới hạn ở chỗ là làm theo khả năng của mình.
Người tại gia cố gắng nếu đi trên con đường của tình giới tính phải chấp nhận chọn con người lý tưởng và xứng đáng. Lý tưởng thì khó nhưng con người phải xứng đáng, hợp với nhau. Thứ nhất cá tánh, thứ hai đạo đức, thứ ba nhận thức, không nhất thiết văn bằng học vị, nhưng nhận thức hai bên, hiểu biết hai bên phải đồng nhau, cuối cùng là hạnh nguyện.
Đức Phật nói, nếu chúng ta chọn con đường của tình giới tính phải biết làm sao chọn lọc con người nào đó để thiết lập cho mình được hạnh phúc. Đời sống vợ chồng phải được thiết lập trên tình thương yêu trong sáng, bổ sung chất liệu tình từ bi và hạn chế tình dục (tình dục là cái hạ cấp trong tất cả các loại tình vừa nêu, suy cho cùng chỉ là người này biến người kia thành cơ hội để thỏa mãn đam mê trong con người mình). Sau này khi trở thành cha mẹ, tình thương yêu giữa cha mẹ đối với con cái, nó mang giá trị cao hơn, để cho những đứa con có thể thành tựu trong cuộc đời.
 Bốn loại tình như vậy, đức Phật nói tùy theo cách thức, tùy theo nghiệp, môi trường sống, nhận thức mà ta chọn loại tình nào cần thiết. Quan trọng nhất, chúng ta phải nuôi thêm tình từ bi để cho tất cả các hoạt động trong đời sống tình cảm của mình được thăng hoa hơn.
TT. TS. Thích Nhật Từ (ĐSHĐ-006)
Sc Nhẫn Hòa diễn đọc

                                    
















































