Bát Kỉnh Pháp được Đức Phật chế định nhân sự kiện Cù-đàm-di cùng 500 vương phi dòng tộc thiết tha khẩn cầu xin được xuất gia. Giáo sử đã ghi lại chi tiết sự kiện này. Theo đó, điều kiện để người nữ xuất gia là phải phụng trì Bát Kỉnh Pháp. Ý nghĩa và| giá trị của Bát Kỉnh Pháp vô cùng to lớn. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, Đức Phật muốn chèn ép người nữ nên mới chế ra tám điều răn giới này, áp dụng cho Ni đoàn. Có quan điểm nói Bát Kỉnh Pháp không phải do Đức Phật chế mà do một số chư Tăng muốn áp đặt người nữ. Cũng có quan điểm cho rằng, trong thời hiện đại, nam nữ đã bình quyền, vậy nên, cần xóa bỏ Bát Kỉnh Pháp… Vậy Bát Kỉnh Pháp có phải là khuôn vàng thước ngọc hay không? Đây là vấn đề rất quan trọng chúng ta cần tìm hiểu.
1. Ý nghĩa và giá trị của Bát Kỉnh Pháp đối với Ni đoàn
Mới nhìn vào Bát Kỉnh Pháp, có thể có người sẽ cho rằng Phật không thương tưởng nữ nhân, nhưng nếu xem xét từng pháp trong tám điều này thì lại không thấy như thế. Theo người viết, Phật ưu tiên người nữ và thương người nữ nhiều hơn, vì đó là những người chân yếu tay mềm. Cụ thể:
(1) Tỳ-kheo-ni phải cầu thọ giới Cụ túc nơi Tỳ-kheo
Để hiểu vấn đề này, cần nhìn lại bối cảnh xã hội Ấn Độ thời điểm đó với sự phân chia thành bốn giai cấp: Giai cấp Bà-la-môn”Brahmana”, chủ trương việc nghi lễ tôn giáo; Giai cấp Sát-đế-lợi “Ksatriya”, là vua quan, nắm quyền thống trị; Giai cấp Tỳ-xà “Vaisya”, là giai cấp bình dân, nông, công, thương; Giai cấp Thủ-đà-la “Sudra”, là giai cấp tiện dân, đời đời làm nô lệ. Trong đó, địa vị người nữ chỉ được coi tương đương đẳng cấp thứ tư. Cho nên, nếu tiếp độ nữ giới lúc này là chưa hợp thời. Hơn nữa, bà Cù-đàm-di và các thể nữ đi cùng khi đó là những người có địa vị trong hoàng tộc, vì vậy dễ sinh tính cao ngạo, tự kiêu, cậy quyền thế… Đức Phật muốn ngăn ngừa tâm tự ngã đó nên Ngài yêu cầu người nữ phải tuân giữ Bát Kỉnh Pháp thì mới được xuất gia.
(2) Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giáo nơi Tỳ-kheo
Phật cho rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau nhưng tính tình người nữ lại mau vui, không vững chí, nhanh chán, tự cao. Thế nên cứ nửa tháng người nữ phải đến thọ giáo Tỳ-kheo, nghe lời giáo huấn. Mặt khác, làm như vậy, người nam cũng được tôn vinh, dẫn đến không phản đổi chuyện thu nhận nữ nhân xuất gia tu học trong Pháp Luật của Như Lai nữa.
(3) Nếu nơi trụ xứ không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không được thọ hạ an cư
Giới này cho chúng ta thấy rõ Phật rất thương phái nữ. Bởi lẽ, xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ rất phức tạp, hiểm họa luôn rình rập người nữ và trẻ em. Nếu Tỳ-kheo-ni ở nơi không người thì sẽ rất nguy hiểm, do vậy không được hạ an cư nơi trú xứ không có Tỳ-kheo.
(4) Tỳ-kheo-ni sau khi thọ hạ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu rõ về ba sự: thấy, nghe và nghi
Đây là phương pháp phát lồ sám hối rất tốt cho người tu học Phật pháp. Đức Phật đặt ra giới này là muốn người nữ bỏ đi tính cao ngạo, hoàn thiện bản thân hơn trong ba tháng an cư mùa mưa.
(5) Nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo-ni thưa hỏi thì Tỳ-kheo-ni không được thưa hỏi về Kinh, Luật và A-tỳ-đàm. Nếu cho phép hỏi thì mới hỏi về Kinh, Luật và A-tỳ-đàm
Giới này, có lẽ Phật sợ người nữ hỏi về Kinh, Luật và A-tỳ-đàm, sẽ biết về những điều Tỳ-kheo chê bai, dẫn đến bất hòa trong Tăng đoàn. Việc cho người nữ xuất gia là một đột phá lúc bấy giờ. Với việc đặt ra giới này, có lẽ Phật cũng muốn Tỳ-kheo yên tâm là người nữ sẽ không bắt bẻ mình, vì vậy mà không phản đối việc cho người nữ gia nhập Tăng đoàn.
(6) Tỳ-kheo-ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo-ni
Giới này, nghe qua có vẻ bất bình đẳng nhưng thật ra không phải vậy. Theo người viết, có lẽ người nữ hay nói nhiều, nói dai, nói dài, dễ làm cho Tỳ-kheo khó chịu, dẫn đến phản ứng. Vì vậy, Đức Phật muốn đề phòng trước. Qua đó cho thấy sự lo lắng rất chu đáo của bậc Đạo sư.
(7) Tỳ-kheo-ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa1 thì đối trước hai bộ chúng hành bất mạn2 trong vòng mười lăm ngày
Với giới này, có lẽ Phật muốn cả hai bộ chúng cùng xem xét, như thế sẽ công bằng cho người nữ. Mặt khác, Tỳ-kheo cũng sẽ cảm thấy mình là người quan trọng, có tiếng nói. Và như thế thì ngay thời điểm đó, Tỳ-kheo sẽ không có ý kiến gì khi Đức Phật cho người nữ tu theo pháp luật của Ngài.
(8) Tỳ-kheo-ni dù có thọ Cụ túc giới lâu đến một trăm năm, nhưng trước Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung cúi đầu làm lễ, cung kính chắp tay thưa hỏi
Đặt ra giới này, có lẽ Phật muốn người nữ phải khiêm cung trước Tỳ-kheo, như vậy sẽ dẹp bỏ được tính ngã mạn.
Qua đó, chúng ta thấy, Đức Phật chế ra Bát Kỉnh Pháp không phải vì không thương người nữ, mà muốn bảo hộ người nữ khỏi sự phản đối của Tăng đoàn. Đồng thời qua đó trang bị cho người nữ một pháp tu, đó là biết khiêm hạ, bỏ đi cái ta, cái ngã của bản thân để hoàn thiện hơn. Cho nên, nếu chúng ta có nhận định sai lệch về Bát Kỉnh Pháp thì cuộc đời tu học đang đi lạc đường, vì còn chấp ngã chấp ta. Theo nhận định của người viết, Bát Kỉnh Pháp là điều kiện tiên quyết thiết yếu, là phương tiện thiện xảo để Đức Phật đưa người nữ lên vị trí cao hơn, bình đẳng với nam giới. Đồng thời, xem tám pháp này như Giới Luật mà Ni giới cần phải hành trì rốt ráo. Hàng Ni lưu Thích nữ cần phải trân quý, giữ gìn như chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân, như tràng hoa đẹp có sắc lại thêm hương giúp cho Ni giới được tốt đẹp và an toàn hơn trong quá trình tu tập. Đó là chính là sự bình đẳng, không phân chia chủng tộc, giới tính.
2. Ni giới thời hiện đại nghĩ gì về Bát Kỉnh Pháp?
Chuyện kể rằng, Cù-đàm-di xuất gia tu học trong Chánh pháp của Như Lai, sau một thời gian đã trở thành Đại Tỳ-kheo-ni khả kính. Đồng thời cũng có các Trưởng lão Thượng tôn Tỳ-kheo-ni danh tiếng nhưng lại phải kính lễ những Tỳ-kheo nhỏ, dẫn đến nảy sinh bất mãn. Vì thế, họ đến gặp A-nan cúi đầu hành lễ, đề nghị Tôn giả xin Phật bỏ đi giới thứ tám. Nhưng Phật không cho bỏ bất kỳ giới nào trong Bát Kỉnh Pháp, bởi theo Người, nếu bỏ một trong tám điều, cũng giống như xây nhà, xây hàng rào, có cửa, có chốt cửa, có đầy đủ mọi thứ nhưng lại không có ổ khóa để khóa cửa, như vậy ăn trộm có thể vào nhà, lấy hết của quý đi. Nhờ rào cản của Giới Luật Tỳ-kheo-ni mà Cù-đàm-di Đại Ái và năm trăm Tỳ-kheo-ni chứng Thánh quả A-la-hán. Chính vì vậy, dù là ở thời xưa hay thời hiện đại, cũng không nên bác bỏ Tám Kỉnh Pháp. Chúng ta không nên dựa vào quan niệm nam nữ bình quyền mà bỏ đi Tám Kỉnh Pháp, vì đó là phương tiện, là thuyền bè để đưa người qua biển khổ sông mê.
Trong thời đại ngày nay, người nữ được xem trọng, đã có thể tham gia mọi hoạt động trong xã hội. Đặc biệt là hiện nay, Việt Nam có những vị Ni tài đức song toàn được làm việc trong Giáo hội, đứng lớp giảng dạy…, cùng với chư Tăng xây dựng ngôi nhà Phật pháp ngày càng hưng thịnh.
Đức Phật đã chứng ngộ Chánh pháp nên Ngài không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, giỏi hay dở… mà chỉ quan tâm xem ai có nhân duyên với Phật để hóa độ, như trong Kinh Pháp Hoa nói: “Vì một sự nhân duyên lớn, khai thị chúng sanh, ngộ nhập Phật tri kiến”3. Đức Phật luôn thương chúng sanh như”con đỏ” nên Ngài không ngại khó khăn, vất vả, từ bỏ quyền quý, vinh hoa, xuất gia tìm đạo. Ngài đi giáo hóa khắp nơi, rải tâm từ đến tất cả mọi loài, khiến chúng sanh được nhiều lợi ích an vui. Từ kẻ sang người hèn, kẻ ác độc, đến người hốt phân, Ngài đều hóa độ thì hỏi sao Phật lại không tiếp độ người nữ xuất gia chứ! Đây chính là thâm ân rất lớn Đức Phật đã ưu ái dành cho người nữ. Nhờ Bát Kỉnh Pháp mà người nữ được bước lên địa vị cao hơn, thoát khỏi kiếp chim lồng cá chậu, hầu hạ nam giới. Đặc biệt, họ được gia nhập Tăng đoàn, xuất gia tu hành, giải thoát khổ đau, gia nhập dòng thánh… Chính vì vậy, theo người viết, Bát Kỉnh Pháp này không thể bỏ. Nếu ai xem trọng mà thực hành thì sẽ được nhiều lợi lạc.
Kết luận
Tóm lại, nếu không có Bát Kỉnh Pháp thì Ni đoàn sẽ không được thành lập và tồn tại đến ngày nay. Bát Kỉnh Pháp chính là bậc thềm đầu tiên đưa người nữ đến địa vị ngang hàng với nam giới và được gia nhập Tăng đoàn tu tập giải thoát. Nếu không có Bát Kỉnh Pháp, người nữ không bao giờ thoát kiếp làm nô lệ cho nam giới, xã hội sẽ không tôn kính và xem là vị Phật tương lai. Đức Phật đã mở ra con đường tươi sáng cho phái nữ, đưa người nữ ra khỏi khổ đau, không còn bị trói buộc bởi những định kiến sai lầm, cổ hủ. Đó là ân đức rất lớn Đức Phật đã ban tặng cho hàng nữ nhân. Chính vì vậy, Ni giới thời đại hiện nay phải nhớ ơn sâu dày của Đức Phật, giữ gìn, phụng trì Bát Kỉnh Pháp. Cần xem đó là pháp môn tu tập làm cho những người nữ tự hoàn thiện bản thân, bỏ đi tính tự cao, khiêm cung trước mọi người, cho dù người đó có nhỏ hơn mình. Đây là cơ hội phát huy khả năng vốn có của người nữ, để rồi có nhiều vị cũng chứng quả A-la-hán như Tỳ-kheo Tăng.
ThS. NCS. Thích nữ Lệ Thảo
- Tăng-già-bà-thi-sa (S. sanghadisesa, P. garudhamma ajjhapannaya): phạm trọng cấm.
- Hành bất mạn. Tứ phần: hành ma-na-đỏa. Pl: ubhatosanghe pakkhamanattam caritabbam, hành manatta trước hai bộ Tăng.
- Trí Tịnh (Dịch, 2009), Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.66.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Giác Dũng (2004), Phật Việt Nam dân tộc Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
2. Thích Chơn Thiện (2000), Tăng già thời Đức Phật, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
3. Trí Tịnh (Dịch, 2009), Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Thích Viên Trí (2009), Ấn Độ Phật giáo sử luận, Nxb. Phương Đông, Thành phố Hồ Chí Minh.
.