Ngày mùa hạ nơi miền Tây sông nước có áng mây trắng trôi bàng bạc trên nền trời xanh, có hương khói trầm quyện tỏa len lỏi trong tủ kinh sừng sững nơi chánh điện và có cả những hành giả nơi trường hạ Phước An, năm mươi, sáu mươi tuổi vẫn miệt mài thời khóa công phu, bảy mươi, tám mươi tuổi vẫn cắp sách lên giảng đường tu học Phật. Được sự trợ duyên của Ban chức sự Hạ trường, chư hành giả An cư vô cùng hoan hỷ chào đón bước chân trí tuệ của Ni sư Như Nguyệt (Huê Lâm) từ nơi Thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, cất công vạn dặm về nơi Cần Thơ để giảng dạy giáo pháp cho chư hành giả được thấm nhuần. Những buổi học tuy ít ỏi nhưng để lại cho con bao kỷ niệm, là hành trang tri thức quý báu cho con thực hành tu tập trong quãng đường dài sau này.
Đa số các kinh điển Đức Phật thuyết là do có người thưa thỉnh, tuy nhiên trong Tiểu Bộ kinh, có 2 tập kinh là do Đức Phật tự thuyết, nghĩa là những kinh này được Đức Phật tự nói, do cảm xúc mạnh sinh khởi, không ai thỉnh Phật thuyết. Cũng có khi dịch là Kinh Vô vấn tự thuyết, nghĩa là không có người hỏi, Đức Phật tự nói. Có khi được dịch là Kinh Những lời cảm hứng, nghĩa là lời nói đột khởi, do cảm xúc mạnh thúc đẩy, khi Đức Phật tự mình chứng kiến những sự việc xảy ra xung quanh (Trích Lời giới thiệu Kinh Phật tự thuyết của Hòa thượng Thích Minh Châu). Một trong 2 tập kinh ấy là tập Itivuttaka (Kinh Phật tự thuyết như vậy). Trong mùa hạ năm nay, là hành giả trường hạ Phước An, con may mắn được Ni sư giảng dạy 2 bài kinh, rút ra từ tập Kinh Phật tự thuyết như vậy. Đó là:
Kinh Kiêu mạn (Mãnasutta)
“Với kiêu mạn, kiêu căng
Bậc thiền quán chánh trí
Bỏ rồi, không bao giờ
Chúng sanh đi ác thú
Từ bỏ kiêu mạn ấy
Trở lại lại đời này”. Kinh Gièm pha (Makkhasuttà)
“Với gièm pha, gièm người
Bậc thiền quán chánh trí
Bỏ rồi, không bao giờ
Chúng sanh đi ác thú
Từ bỏ gièm pha ấy 
Trở lại lại đời này”.
Có lẽ do thấu rõ căn cơ của chư Ni cao tuổi đang An cư tại nơi đây, Ni sư đã rút ra 2 bài kinh dễ hiểu nhất để dạy, cho chúng con dễ dàng ứng dụng vào đời sống tu tập của mình. Mỗi bài kinh chỉ cần ghi nhớ sáu dòng kệ ngắn gọn, chỉ học vỏn vẹn trong một ngày, nhưng là ngọn đuốc soi sáng suốt cả một đời tu.
Kiêu mạn trong giáo lý Phật giáo là một trong 10 kiết sử trói buộc chúng sanh trong luân hồi (10 kiết sử bao gồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến). Kiêu căng che mờ trí tuệ dẫn đến vô minh, khiến con người không thấy được Tam pháp ấn (tức là sự thật về vô thường – khổ – vô ngã). Đức Phật dạy, bậc thiền quán chánh trí khi đã bỏ được kiêu mạn, thì con đường tái sinh vào ác thú (ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) không còn nữa. Ni sư đã giảng rằng, kiêu mạn và kiêu căng là gốc của sự chia lìa, là cánh cửa mở ra bao nẻo ác. Người học đạo, nếu không nhận diện và buông bỏ, thì dù có công phu thiền định hay trí tuệ, vẫn chưa thật sự bước vào con đường giải thoát.
Gièm pha là một loại tà ngữ, thuộc về khẩu nghiệp. Trong Bát Chánh đạo, có “Chánh ngữ”, là lời nói chân thật, từ ái, mang tính xây dựng. Gièm pha thì ngược lại, gây chia rẽ, thù hằn, tạo ác nghiệp dẫn đến quả báo xấu. Người gièm pha thường xuất phát từ tâm ganh tỵ, ích kỷ. Lời gièm pha làm tổn hại uy tín người khác, nhưng đồng thời cũng làm tâm mình thêm đen tối. Ni sư đã trùng tuyên lại lời khẳng định của Đức Thế Tôn, nếu bậc hành giả từ bỏ được gièm pha, thì cũng thoát khỏi ác thú, vì khẩu nghiệp trong sạch chính là một phần quan trọng của giới hạnh, đó là giới Bất vọng ngữ trong Sa di thập giới.
Kiêu mạn làm con người tự cô lập trong vỏ bọc ngã chấp, còn gièm pha thì khiến tâm hồn ngày càng khô cạn tình thương. Một bên là ngọn lửa đốt trong lòng, một bên là mũi tên bắn ra ngoài – cả hai đều làm tổn thương chính mình và tha nhân. Kiêu mạn thuộc về ý nghiệp, gièm pha thuộc về khẩu nghiệp, cả hai đều là gốc rễ dẫn xuống ác thú. Ni sư đã nhắc nhở chúng con rằng, người tu tập cần quán chiếu sâu sắc để nhận diện chúng trong từng khoảnh khắc, vì đây là những tập khí vi tế, dễ sinh khởi trong đời sống thường ngày, chỉ cần một niệm buông bỏ thôi, con đường luân hồi liền thay đổi.
Nghe kinh, con bỗng thấy rõ, tu đâu phải chuyện xa xôi, cũng không nằm ở Pháp môn cao siêu, mà ngay trong từng hơi thở, từng lời nói, từng ý nghĩ. Nếu con còn kiêu mạn, còn gièm pha, thì cửa địa ngục vẫn luôn mở. Chỉ cần một niệm buông xuống, một tâm khiêm hạ, một lời ái ngữ, thì Niết bàn cũng hiện hữu ngay đây. Hai bài kinh tuy ngắn nhưng chính là phương thuốc trị hai căn bệnh lớn của con người: tự cao và chê bai. Chỉ cần trị được hai căn bệnh này, con đường tu sẽ mở rộng thênh thang. Do đó, bằng việc giảng dạy 2 bài kinh này, Ni sư đã cho con một hành trang mà con sẽ mang theo trong suốt đời tu của mình.
Con lắng lòng nghe lời Ni sư giảng giữa hạ trường Phước An đầy nắng gió, thấy từng câu kinh như suối mát chảy vào tâm mình. Mỗi ngày học một bài kinh như một hạt ngọc rơi vào huyễn mộng trong con làm soi sáng thêm trí tuệ, nuôi lớn lòng từ bi. Bằng ánh sáng trí tuệ của mình, những lời pháp nhũ của Ni sư đã thức tỉnh con giữa vô minh, giúp con khai mở tri kiến, hiểu đúng giáo pháp Như Lai.
Ngày nay, con còn mạn tâm trong từng lời nói, còn khởi niệm hơn thua trong từng việc nhỏ. Bài Kinh Kiêu mạn và bài Kinh Gièm pha do chính Đức Phật tự thuyết đã nhắc nhở con quay về nẻo chánh, không chỉ để học một ngày, mà là để hành cả đời. Con nguyện trọn đời bước trên con đường tỉnh thức, để lời kinh không chỉ nằm trên trang giấy, mà hóa thành hơi thở, thành máu chảy trong tim. Con xin ghi lại bằng mấy vần thơ:
Kiêu mạn khởi – ngã tâm dâng
Như mây che khuất ánh trăng đêm rằm
Người trí quán chiếu âm thầm
Buông rơi kiêu mạn, tháng năm an hòa.
Một bài kinh, học một ngày
Mà thành hạt giống theo hoài đời con
Lối về tịch lặng, vuông tròn
Nguyện luôn ghi nhớ sắt son ơn Thầy.
Con nguyện giữ lời kinh này không chỉ trong mùa An cư, mà trong suốt đường tu. Vì chỉ cần một bước trở về với tâm chân thật, thì chính nơi đây đã là cõi tịnh an lành. Con xin nhắc lại đôi vần thơ đã đọc vào ngày cung thỉnh Ni sư quang lâm giảng đường, thay cho lời tri ân sâu sắc của con dành cho Ni sư:
Sen Huê Lâm nở ngát hương thiền, 
Dáng Người lặng lẽ giữa an nhiên.
Trí tuệ nhuần sâu như suối mát, 
Từ bi thấm đẫm ánh tâm hiền.
Pháp thân tỏa sáng miền mây tịnh, 
Hạnh nguyện chan hòa bước nhẹ tênh.
Về đến Phước An – sen hé nụ, 
Dẫn đường tu học giữa nhân duyên.
Phước An hạ trường, PL 2569.
TN. Bảo Nhiên{ĐSHĐ-145}

                                    
















































