Bát nhã Tâm kinh lược giải

Bát – nhã Tâm kinh là giáo lý thông cả hai hệ tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy và Phát triển. Bản Bát – nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán, vào đời nhà Đường, năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân, Trung Quốc. Tuy được tụng đọc thường ngày, nhưng hiểu sâu về lý “tánh không” trong kinh dường như chưa nhiều, nhất là đối với Phật tử tại gia. Bởi, chỉ mỗi chữ “không”, cũng đủ cho chúng ta thấy khó trong việc thẩm thấu yếu nghĩa một cách chính xác, rõ ràng để đưa vào cuộc sống. Toàn phẩm Bát – nhã Tâm kinh, theo tôi quan trọng nhất là đoạn đầu: “Quán Tự Tại Bồ – tát hành thâm Bát – nhã ba – la – mật – đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách”. Tôi nghĩ, nếu ai hiểu đúng, hành đúng ý nghĩa của đoạn kinh này, chắc chắn sẽ đứng ngoài vòng khổ đau, sinh tử. Nhưng, có mấy ai được như thế, nhất là trong thời đại văn minh siêu tốc hiện nay!

I. Lược giải đề Kinh

Bát – nhã Tâm kinh, nói cho đủ là Ma – ha Bát – nhã Ba – la – mật – đa Tâm kinh. Ma – ha phiên âm tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “đại” có nghĩa là lớn, bao la rộng lớn, không giới hạn, không ngằn mé, giống như hư không. Nhưng đây nói theo nghĩa tục đế, so sánh thế gian. Còn “lớn” của Ma – ha trong Bát – nhã thì vượt ngoài mọi qui ước thường tình. Bát – nhã cũng phiên âm từ tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Trí tuệ là cái thấy biết không mê lầm, là tuệ giác hoàn hảo, siêu suất lên mọi tri thức, trí thức; soi thấy tất cả pháp (mọi sự vật) đúng như thật; nên xả ly được mọi tham ái, chấp thủ về ngã, ngã sở; ung dung bước lên bờ giải thoát. Tổ Bách Trượng dạy: “Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu” (nếu đất tâm sạch hết cỏ rác vọng tưởng thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu sáng).

Tuệ đó chính là Bát – nhã. Nó có sẵn nơi mỗi chúng sanh nói chung và chúng ta nói riêng. Nó không hình tướng lớn nhỏ, vì chỉ là “tâm trí tuệ”; như ngài Lục Tổ Huệ Năng đã nói trong kinh Pháp Bảo Đàn: “Bát – nhã không hình tướng, ấy là trí tuệ tâm” (Kinh Pháp Bảo Đàn, tr.149, HT.Tuyên Hóa). Nó bình đẳng trong mọi loài, mọi người. Nhưng chúng ta có nhận ra và sống được với nó không còn tùy vào sự mê, ngộ của mỗi chúng ta. Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ dạy: “Trí Bát – nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng thôi” (Kinh PBĐ, tr.164, HT.Tuyên Hóa). Ngài còn dạy thêm: “Này Thiện trí thức! Tất cả trí Bát – nhã đều từ tự tánh sanh, chứ không phải do ngoài vào, chớ lầm cái ý thức cho là chân tánh tự dụng” (Kinh PBĐ, tr.147, HT.Tuyên Hóa).


Chính vì tâm Bát – nhã do từ tự tánh sanh nên nó đứng ngoài pháp sinh diệt. Nó to lớn tròn đầy, bao la không bờ mé, không giới hạn; trùm khắp hư không, không chỗ nào hở trống, nên gọi là Ma – ha Bát – nhã. Nó vượt ngoài ngôn ngữ thế gian, siêu việt cả tri thức cao nhất của con người và có công năng đưa kẻ xuất trần ra khỏi sông mê bể khổ, nên gọi là Bát – nhã Ba – la – mật (đến bờ giác bên kia). Do đó, để tránh lầm lẫn giữa Bát – nhã và trí tuệ thế gian, các dịch giả Việt Nam dùng nguyên cụm từ Bát – nhã, hoặc thêm hai chữ trí tuệ đi kèm.

Khác với trí tuệ Bát – nhã, ở thế gian thường những người học rộng, biết nhiều, thông minh, như các nhà bác học, khoa học, triết học, v.v… đều được cho là người tri thức hay trí thức (hiện nay thì có khi cho là người trí tuệ). Trí tuệ này do đầu tư, vay mượn từ các môi trường bên ngoài như gia đình, học đường, xã hội, sách báo, phim ảnh, internet… mà có; nên không phải là trí tuệ Bát – nhã. Càng không phải Bát – nhã khi người sở hữu nó còn lắm nỗi khổ niềm đau do bởi lún sâu trong nghiệp chướng tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, chấp thủ, tham dục v.v.. Và nhất là họ còn nổi trôi trong sanh tử luân hồi triền miên bất tận. Dẫu rằng đối với thế giới loài người họ là người có công nhất, cống hiến nhiều nhất, tích cực nhất cho nền văn minh siêu tốc hiện nay. Nhưng than ôi! bên cạnh những thành tích tốt đẹp đó đã sản sanh biết bao thứ tiêu cực khác, khiến không ít con người trên hành tinh xanh này biến chất, mất hết nhân tính nên không tội ác nào mà không làm. Vì thế, họ không thể chối bỏ rằng một trong số họ cũng là kẻ mắc tội lớn nhất đối với lịch sử văn hóa, đạo đức loài người.

Qua đó, cũng đủ cho chúng ta phân biệt được thế nào là trí tuệ Bát – nhã, thế nào là trí tuệ thế gian, để tránh sự lầm lẫn buổi sơ cơ học đạo. Tuy nhiên, nếu chỉ biết phân biệt, chưa đủ, mà quan trọng là làm thế nào nhận cho ra trí Bát – nhã đó, khi nó không hình tướng; làm thế nào sống cho được với nó trên lộ trình tu tập của mình; hầu thoát ly phần nào khổ ách, chỉ phần nào thôi, chứ không dám “mơ” là được hết “tất cả khổ ách” như ngài Quán Tự Tại ở đây! Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Này Thiện tri thức! Trí Bồ – đề Bát – nhã, người thế gian vốn tự có, bởi mê nên chẳng tự ngộ được thôi. Phải cầu bậc đại thiện tri thức chỉ dẫn cho, mới thấy tánh” (kinh PBĐ, tr.138, HT.Tuyên Hóa).


Ở đây, Tổ dạy rõ ràng, người thế gian ai ai cũng có trí tuệ Bát – nhã, chỉ tại tâm mê nên không ngộ được, phải cầu đại thiện tri thức chỉ dẫn mới ngộ. Thông thường, các bậc đại thiện tri thức dạy chúng ta muốn vào nhà Bát – nhã phải đi qua ba cửa, đó là Văn tự Bát – nhã, Quán chiếu Bát – nhã và Thật tướng Bát – nhã. Thế nào là Văn tự Bát – nhã? Thông qua ba tạng Kinh, Luật, Luận của Phật chúng ta được thầy tổ và các giáo thọ sư, giảng sư… gia tâm dạy dỗ; chúng ta học, hiểu và đưa vào ứng dụng tu tập dưới sự hướng dẫn trực tiếp của nghiệp sư. Nhờ vậy, chúng ta tin chắc rằng nơi tự tánh của chúng ta có trí Bát – nhã bất sanh bất diệt, sáng tỏ tuyệt vời, diệu dụng vô tận. Người nào “ngộ” được trí Bát – nhã này nhất định bóng tối vô minh tan biến, mọi phiền não, chấp trước, tham dục v.v… đều bị quét sạch; được tự tại vô ngại, giải thoát. Hiểu và tin như thế, khởi sự muốn tu, quyết tu đến đích, tức là đã qua khỏi cửa Văn tự Bát – nhã.

Nhưng qua khỏi cửa thứ nhất đó chưa đủ, chúng ta còn phải đi tiếp cửa thứ hai, đó là Quán chiếu Bát – nhã. Để đi vào cửa thứ hai, chúng ta đem lời Phật, lời Tổ dạy ra quán chiếu. Chẳng hạn chúng ta có thể lấy một đoạn kinh sau đây của Lục Tổ Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn mà quán chiếu, hành trì: “Này Thiện tri thức! Trí tuệ thường chiếu soi trong ngoài đều sáng tỏ, thì biết rõ bổn tâm của mình. Biết rõ bổn tâm tức là giải thoát, tức là Bát – nhã tam muội v.v…” (Kinh PBĐ, tr.186, HT.Tuyên Hóa).

Đoạn này Tổ muốn nói: Ánh sáng Bát – nhã không những luôn luôn soi chiếu trong tâm chúng ta mà còn soi tỏ cả mọi hành vi, động dụng trong thân (sáu căn) cùng ngoại cảnh (sáu trần). Thân tâm, trần cảnh đều được Bát – nhã thường soi chiếu, người trí qua đó “biết rõ” bổn tâm, tức thì được giải thoát, được Bát – nhã tam muội. Bổn tâm là tâm gốc, có sẵn, không sanh, không diệt nơi mỗi chúng ta. Cái đó chính là Chơn tâm, Phật tánh, Tự tánh, Chơn không, v.v… Còn Bát – nhã tam muội là Trí tuệ chánh định từ trong Tự tánh chiếu ra. Đạt đến Trí tuệ chánh định này được ra khỏi bờ mê sanh tử. Hiểu như thế chúng ta đưa vô ứng dụng. Ngồi thiền soi chiếu lại mình, thấy vọng tưởng dấy khởi cuồn cuộn trong tâm, chúng ta không nên sợ hãi, mà chỉ cần biết tâm đang khởi vọng.

Biết tâm vọng thì vọng liền lặng mất. Bấy giờ, chúng ta rõ biết tâm đang bặt vọng. Tánh rõ biết này đích thực là từ Bát – nhã chiếu soi. Như đức Lục Tổ nói: “Trí tuệ thường chiếu soi trong (tâm) ngoài (cảnh) đều sáng tỏ…” Chúng ta hãy sống với ánh sáng Bát – nhã đó, luôn luôn rõ biết thực tại hiện tiền tâm như thế, là ta đã vào cửa quán chiếu Bát – nhã. Đã vào cửa quán chiếu Bát nhã khi tiếp duyên đối cảnh, phải dụng công theo lời Tổ dạy: “Này Thiện tri thức! Tâm mình trong ngoài chẳng trụ, lui tới tự do, bỏ đặng lòng chấp trước, suốt thông không trở ngại, tu trọn các hạnh ấy, thì đối với kinh Bát – nhã vốn không chỗ sai khác” (Kinh PBĐ, tr.166, HT.Tuyên Hóa). “Tâm mình trong ngoài chẳng trụ…” tức là trong tâm, mình không dính mắc pháp trần (tạp niệm). Vì sao không dính mắc? Vì biết nó vọng, không thật, đến đi trong tích tắc. Ngoài cảnh, ta không vướng bận năm trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc). Vì sao không vướng bận? Vì biết nó giả hợp, tồn tại không lâu. Nếu dụng công được như thế đâu có gì để ta chấp trước? Không dính mắc pháp trần, không chấp trước năm trần đâu có gì ngăn ngại để cho mất tự do, không thông suốt? Vận dụng Phật pháp vào cuộc sống đời thường được như thế là ta đã rời khỏi cửa thứ hai, Quán chiếu Bát – nhã, để đi vào cửa thứ ba, Thật tướng Bát – nhã.

Ở đó, khi sức quán chiếu đạt đến mức hạnh giải tương ưng, thuần thục, tức là nói và làm không chống trái nhau một cách nhuần nhuyễn, thì cửa thứ ba, Thật tướng Bát – nhã, tự nhiên bật mở, tâm hành giả tỏ ngộ hoàn toàn (đại ngộ). Bấy giờ, tâm thể suốt thông, động dụng rõ ràng, tới lui tự tại. Tâm lượng trùm khắp pháp giới, tự do ra vào ngôi nhà trí tuệ Bát – nhã của mình. Từ nay, vĩnh viễn đứng ngoài bờ sanh bến tử, công phu tu tập Thật tướng Bát – nhã đến đây hoàn mãn. Tóm lại, Bát – nhã là tuệ giác siêu việt, được lưu xuất từ Tự tánh thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng sanh, nên ai ai cũng có Bát – nhã tròn đầy, bình đẳng. Chỉ tại tự tâm của mỗi người mê ngộ chẳng đồng, do đó chỗ hoạt dụng của nó cũng không giống. Bát – nhã vì từ Tự tánh sanh nên không khác Tự tánh và cũng không khác với Phật tánh, Chơn tâm, Chân không v.v… Chẳng qua là tùy chỗ dụng mà có tên gọi khác nhau, chứ tất cả đều đồng một thể.

Bát – nhã có công năng chặt đứt mọi gốc rễ phiền não, chiếu phá tất cả bóng tối vô minh, soi tỏ tánh không của năm uẩn, đưa khách trần ra khỏi biển sanh tử luân hồi. Do đó, đức Lục Tổ Huệ Năng nói: “Pháp Ma – ha Bát – nhã Ba – la – mật – đa là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ vào chỗ nào, không qua cũng không lại, tất cả chư Phật ba đời đều từ trong pháp ấy mà ra.” (Kinh PBĐ, tr.155, HT.Tuyên Hóa).

Ba – la – mật – đa phiên âm từ tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là đáo bỉ ngạn, Việt Nam dịch là đến bờ kia hay rốt ráo viên mãn. Còn phàm phu được coi như ở bên này bờ mê. Giải thoát, giác ngộ được gọi là đến bờ giác bên kia. Ba – la – mật – đa còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo, viên mãn, cùng tột. Tâm kinh là tiếng Trung Hoa, dịch từ tiếng Phạn. Tâm kinh là lời dạy tâm yếu về sự giải thoát khổ đau, vượt biển sinh tử thông qua trí tuệ Bát – nhã, là thứ trí được đức Lục Tổ Huệ Năng đánh giá là “tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất…”. Đây cũng là tinh hoa, cốt lõi của kinh Đại Bát – nhã 600 quyển, thuộc hệ tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Hiểu được Bát – nhã Tâm kinh, cho dù vỏn vẹn chỉ 262 chữ, chúng ta cũng có thể nắm được phần nào yếu nghĩa của bộ kinh Đại Bát – nhã ấy.

Vậy “Ma – ha Bát – nhã Ba – la – mật – đa Tâm kinh” là một bài pháp thoại nói về diệu dụng của trí Bát – nhã, là tuệ giác siêu việt, có công năng soi thấy như thật tất cả pháp qua “năm uẩn đều không”, đưa con người từ bờ mê lên bến giác. Người sống được với trí tuệ này nhất định sẽ thoát ly mọi đau khổ của thân, chủ động được mọi ham muốn của tâm, tự tại vô ngại trên đường sanh nẻo tử.

II. Lược giải văn kinh

“Quán Tự Tại Bồ – tát hành thâm Bát – nhã ba – la – mật – đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” (Khi Bồ – tát Quán Tự Tại hành sâu Bát – nhã ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách, Tâm kinh Bát – nhã giảng giải, HT.Thích Thanh Từ). Quán là quán xét, soi thấy (thấy bằng tâm) thấu tỏ tận bên trong của một vấn đề, một thực tại nào đó. Tự tại là trạng thái khinh an, giải thoát, không vướng bận, không bị cản trở, ràng buộc bất cứ một thứ gì, hoàn toàn tự do tuyệt đối. Quán tự tại, ý nói tâm hằng chiếu soi, suốt thấy, rỗng rang, vô quái ngại. Quán Tự Tại là tên khác của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quán Thế Âm là suốt thấy (thấy qua Tâm) tiếng kêu than của trần thế, vào đời cứu khổ cho đời. Một Bồ – tát đi vào đời cứu độ chúng sanh dĩ nhiên đã là người giác ngộ, người hoàn toàn tự tại vô ngại trước mọi cám dỗ của cuộc đời. Bồ – tát là tiếng gọi tắt của Bồ – đề – tát – đỏa. Bồ đề là tỉnh giác, không mê lầm; đồng nghĩa với Niết – bàn.


Thế nào là tỉnh giác? Là có ý thức đối với những gì chúng ta đang sống, đang tiếp cận, tại đây và ngay bây giờ. Sống có ý thức, nhất định không bị sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) lôi cuốn; không bị ngũ dục (tình, tiền, danh, ăn, ngủ) sai sử, mê hoặc nên tâm ý thanh tịnh; thân không gây khổ, tạo nghiệp. Trong Trường Bộ kinh 1, đức Phật dạy về “tỉnh giác” như sau: “Đại Vương! thế nào là Tỳ – kheo chánh niệm tỉnh giác? Đại Vương! Ở đây, Tỳ – kheo khi đi tới, khi đi lui, đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác. Như vậy, này Đại Vương, Tỳ – kheo chánh niệm tỉnh giác”(trang 134, HT.Thích Minh Châu, dịch).

Tát – đỏa là chỉ cho chúng hữu tình hay cũng gọi là chúng sanh, tức là loài có tri giác như loài trời, loài người, a – tu – la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Nhắc lại, Bồ – tát, nói hẹp là người tỉnh giác, người đã sạch hết lậu hoặc, vượt thoát khổ đau và đang trên lộ trình cứu độ chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh theo sở nguyện. Từ “Bồ – tát” không dành riêng cho một cá nhân nào, mà bất cứ ai, bất cứ chúng sanh nào đã đoạn tận mê lầm do tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; đã đứng ngoài vòng khổ đau, phiền trược và tự tại ra vào biển sanh tử để cứu độ chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh không điều kiện, không chấp thủ, không biết mỏi mệt đều được gọi là Bồ – tát.

Vì vậy, Bồ – tát là người gần gũi chúng ta nhất. Biết đâu trong số Thầy tổ, huynh đệ, bạn bè đồng tu với chúng ta lại có người là Bồ – tát hiện thân? Nhưng thường thì trong quá trình tu tập, hành đạo của quí ngài không ai biết quí ngài là Bồ – tát, chỉ sau khi quí ngài từ giã cõi đời, người đời sau thấy được công hạnh của quí ngài đối với con người và đạo pháp, mới tôn vinh quí ngài là Bồ – tát, như Bồ – tát Thích Quảng Đức chẳng hạn. Bồ – tát chân thật không bao giờ tự thấy mình là Bồ – tát, huống chi tự xưng Bồ – tát. Điều này, đức Phật nói rõ trong đoạn kinh dưới đây: “Tu – bồ – đề! Nếu Bồ – tát thông đạt pháp vô ngã như thế, ta gọi là chân Bồ – tát”. (Kinh Kim Cang giảng giải, tr.154, HT.Thích Thanh Từ).

Thông đạt pháp vô ngã là hiểu và làm tương ưng nhau đối với tinh thần không chấp ngã, không tham ái, chấp thủ những thứ của ta, thuộc về ta. Chân Bồ – tát là Bồ – tát chánh hiệu, đúng với danh nghĩa, không giả mạo, mượn danh. Hành thâm là thực hành thâm sâu hoặc thâm nhập sâu xa một pháp tu nào đó đến độ nó trở thành chất liệu sống của hành giả. Chẳng hạn như hành thâm niệm Phật là tập trung tâm ý vào danh hiệu Phật, niệm niệm liên tục, không cho gián đoạn. Niệm đến khi nó thuần thục, không cố niệm, câu niệm Phật vẫn cứ trôi chảy một cách tự nhiên trong tâm ta, như một dòng thác bất tận dù ta muốn dừng nó cũng không dừng được. Nó trở thành một với ta, thành chất liệu sống của ta như ăn, uống, hít thở.


Hành thâm Bát – nhã cũng vậy, cho nên mọi động dụng trong cuộc sống đều được soi tỏ bởi Thật tướng Bát – nhã, soi tỏ một cách tự nhiên, thường trực. Chiếu kiến là soi thấy, thấy suốt qua một cách trực tiếp, không qua trung gian. Ngũ uẩn là năm yếu tố tích nhóm hình thành ra con người nói riêng và mọi sinh vật nói chung. Năm thứ đó gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Trong đó sắc là phần thể xác; thọ, tưởng, hành, thức là phần tinh thần. Ngũ uẩn giai không là năm uẩn đều không. Nhưng, năm uẩn thế nào mà gọi là Không? Và Không là Không làm sao? Chúng ta phải hiểu rõ mới ứng dụng tu tập được.

Sắc, nói đủ là sắc pháp, đối tượng của con mắt; gồm muôn hình vạn trạng đang hiện hữu trên hành tinh xanh này. Trong đó, dĩ nhiên con người là trung tâm điểm. Nhận định về sắc, đức Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Kinh Kim Cang giảng giải, tr.40, HT.Thích Thanh Từ), nghĩa là phàm cái gì có hình tướng đều tạm bợ, như huyễn, không thật, có đó rồi mất đó. Thực tế là như thế, không ai dám phủ nhận điều này. Vì chỉ cần quan sát một vật thể nào đó như bình hoa chẳng hạn, chúng ta cũng đủ biết nó không phải do tự nhiên hay ngẫu nhiên mà có; cũng không phải tự nó có ra một cách độc lập, riêng rẽ, đơn thuần. Nó phải do sự tập hợp của nhiều thứ hoa, nhánh hoa, bình hoa, bàn tay của người cắm hoa, nơi chốn cắm hoa, thời gian cắm hoa và nhiều thứ linh tinh khác nữa.
Thiếu một trong những thứ này, nhất định bình hoa không xuất hiện. Nếu ai đó hỏi rằng trong ngần ấy thứ của bình hoa, thứ nào được xác định là chủ thể của nó, chắc chắn là không có thứ nào hết. Bởi thứ nào cũng là thành tố, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành bình hoa; thiếu bất cứ thứ nào bình hoa đều không hiện hữu. Nhưng rồi sau khi bình hoa có mặt, nó lại bị lực tác động của định luật vô thường, không tự bảo tồn được. Thế là chỉ vài ngày sau, bắt đầu úa tàn khô héo và cuối cùng đổi tướng trạng thành hoa rác, bình hoa mất dạng. Đồng hồ cũng thế, nó là một cấu thể của nhiều vật chất khác nhau, tạm đặt tên cho nó là “đồng hồ”, nhằm phân biệt với những vật thể khác. Nếu chúng ta lấy từng bộ phận của nó ra, đồng hồ sẽ không còn nữa, mà trở thành một đống kim loại vụn.
Nói chung, tất cả mọi vật chất (sắc) trên đời này đều do sự kết hợp của nhiều yếu tố, điều kiện, nhân duyên mà hình thành nên nó không khả năng tồn tại. Đức Phật, sau 49 ngày đêm chuyên sâu thiền định, Ngài đã khám phá ra điều này, một qui luật tự nhiên, bất di bất dịch hiện chi phối toàn bộ vũ trụ nhân sinh. Ngài giác ngộ từ đó, đêm cuối cùng của cuộc hành trình tìm chân lý đầy gian lao, thử thách. Qui luật này Ngài gọi: “Đó là nguyên lý duyên sinh. Nguyên lý duyên sinh này là thực tính của mọi hiện hữu. Sự thật này không thay đổi dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện” (Tương Ưng Bộ II, tr.51 – 52, HT.Thích Minh Châu dịch).

Cũng chính từ thực tính duyên sinh ấy mà mọi vật thể hiện hữu trên cuộc đời đều huyễn hóa, không thật. Đủ duyên nó đến, hết duyên nó đi; hay đúng hơn chuyển đổi tướng trạng khác khi yếu tố, điều kiện, nhân duyên hội đủ. Từ cơ sở này ngài Quán Tự Tại, qua lăng kính Bát – nhã, soi thấu được bản chất của sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô tự tánh, tức đều Không. Không ở đây nhằm chỉ rõ thực tính duyên khởi, bất di bất dịch của năm uẩn; nên chớ lầm với không theo nghĩa phủ định. Nói một cách rõ hơn, khi đủ yếu tố, điều kiện, nhân duyên thì sắc hiện hữu. Hết nhân duyên thì sắc ra đi để cùng với các yếu tố, điều kiện, nhân duyên khác mà hình thành một vật thể mới. Nó không có một sự hiện hữu nội tại nào. Nó hoàn toàn vô ngã, không Tự tánh. Đó là toàn bộ ý nghĩa của Không. Không đây thuộc duyên khởi tánh Không, đồng nghĩa với Không trong bài kệ “nhân duyên sanh” của ngài Long Thọ, trong Luận Trung Quán. Chúng ta hãy đọc bài kệ của ngài sẽ sáng tỏ vấn đề:

“Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Diệc danh vi giả danh
Diệc danh Trung đạo nghĩa.”

Dịch:

“Nhân duyên sinh các pháp
Ta nói tức là Không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi Trung đạo nghĩa”.

Bài kệ này ý nói: các pháp do duyên khởi nên không có một sự hiện hữu nội tại nào, không có tướng cố định, không thật, như huyễn. Do đó, ngài gọi là Không, cũng gọi là giả danh. “Thấy” được tánh Không của các pháp như thế là “thấy” như thật các pháp, “thấy” được “đệ nhất nghĩa đế”, vượt khỏi thế giới nhị nguyên, đưa đến thoát ly sinh tử. Cho nên, gọi đây là ý nghĩa con đường Trung đạo. Thế nhưng, trên thực tế chúng ta lại không thấy vật chất xung quanh ta là Không, là phù du, bóng nước nên luôn có tham vọng về nó, tích chứa, bám níu, chấp thủ nó. Từ đó gây khổ, tạo nghiệp bất tận khôn cùng.


Đoạn kinh trên, đức Quán Tự Tại muốn khai thị cho chúng ta sáng tỏ vấn đề tất cả mọi hiện tượng vật chất đều Không, đều duyên sinh không thật có. Mặc dù bên ngoài thấy nó như hoàn hảo lắm, nhưng đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, kỳ thật bên trong rỗng tuếch, trống không, không có một sự hiện hữu nội tại nào nên rất vô thường, giả tạm. Nếu chúng ta thẩm thấu một cách sâu sắc như thế, nhất định không có cái gì mà ta không buông bỏ được! Một khi buông bỏ được rồi, mọi khổ đau tai ách đều qua hết! Đây là trọng tâm thứ nhất mà đức Quán Tự Tại muốn khai thị cho chúng ta.
(Còn tiếp)

Thích Nữ Như Cương (ĐSHĐ-007)

SỰ KIỆN NỔI BẬT
VIDEO SỰ KIỆN
Video thumbnail
Hội Nghị Tổng Kết Công Tác Phật Sự Của PBNG TP. Hồ Chí Minh Năm 2024
06:50
Video thumbnail
Tổng kết công tác Phật sự của PBNG TP.HCM năm 2024 - PL.2568
17:11
Video thumbnail
PBNG TW thăm trường Hạ 5 tỉnh Tây Nguyên - PL.2568 - DL.2024
16:46
Video thumbnail
Ni sinh trường Cao Trung Phật học Tiền Giang tụng kinh Pháp Hoa Kính mừng Phật đản - 11/5/2024
03:34
Video thumbnail
HỌP MẶT - MÓN QUÀ CAO QUÝ KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
09:32
Video thumbnail
THIỀN HÀNH SAU KHI THỌ THỰC
02:18
Video thumbnail
Ni giới Phật giáo TP.HCM kính mừng Đại lễ Phật đản PL.2568 - DL.2024
09:45
Video thumbnail
Lễ Húy Kỵ lần thứ 25 Sư trưởng thượng NHƯ hạ THANH tại Tổ đình Huê Lâm - Q11, TP.HCM
33:24
Video thumbnail
PBNGTW: Tiểu ban Thông tin Truyền thông | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
03:37
Video thumbnail
PBNGTW: Tổng kết công tác Phật sự năm 2023 | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
15:51
Video thumbnail
Hội đồng Thập Sư 3 đàn phát thưởng cho các Giới tử - Đại giới đàn Bửu Huệ 2023
03:44
Video thumbnail
Tuần Chiếu tại Giới Đàn Ni Chùa Thanh Tâm
03:02
Video thumbnail
Đại Giới đàn Bửu Huệ tại Giới trường Ni - Chùa Thanh Tâm - 2023
09:53
Video thumbnail
Lễ Huý Kỵ lần thứ 3 cố NT. TN. thượng Như hạ Hải - Chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Hà Tiên - 26/9/2023
07:38
Video thumbnail
Lễ Khai đàn Dược sư Thất Châu - Chùa Pháp Hải
17:47
Video thumbnail
Lễ Húy Nhật lần thứ 17 cố Ni trưởng Thượng Như Hạ Bổn - Viện chủ TĐ Kim Sơn (27/7/2006 - 23/7/2023)
45:08
Video thumbnail
Lễ Húy kỵ cố Hòa thượng Thích Nhật Quang tại Hội Sơn Cổ tự
16:37
Video thumbnail
Tọa đàm “Bình đẳng giới trong Nữ giới Phật giáo - 2023” – Chùa Huê Lâm, TP.HCM
19:56
Video thumbnail
Lễ húy nhật lần thứ 6 cố Sư trưởng Thượng Huyền Hạ Huệ - Hải Ấn Ni Tự, TP.HCM
14:11
Video thumbnail
Lễ Vu Lan và Dâng Y tại chùa Vạn Phước - Bình Tân - TP.HCM
11:04
Video thumbnail
Đại lễ Vu lan báo hiếu tại chùa Pháp Võ - Nhà Bè - TP.HCM
12:37
Video thumbnail
“Rửa Chân Tri Ân Song Thân” - Chùa A Di Đà - Củ Chi - Tp.HCM
19:13
Video thumbnail
PBNG TW thăm, sách tấn Chư hành giả an cư tại các Hạ trường tỉnh miền Đông, 28/7/2023 (11/6/Quý Mão)
20:02
Video thumbnail
PBNG TW hoàn tất chuyến thăm và cúng dường Hạ trường tại Tây Nguyên 2023
18:50
Video thumbnail
PBNG TW thăm 4 tỉnh: Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum
08:16
Video thumbnail
Kính mừng Đại lễ Phật đản - PL.2567 - DL.2023 - BTS Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Tiền Giang
08:05
Video thumbnail
Đại lễ Tưởng niệm Đức Thánh Tổ Ni Đại Ái Đạo & Chư Tôn Đức Tiền Bối Hữu Công PGVN | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
10:47
Video thumbnail
Đại lễ Kiều Đàm Di tại Bình Phước 2023: Triển lãm - Dâng hương - Tọa đàm - Thắp nến tưởng niệm
34:37
Video thumbnail
Đại lễ Kiều Đàm Di tại Bình Phước - 22 & 23/04/2023: Công tác chuẩn bị
04:59
Video thumbnail
Lễ Vinh danh cá nhân xuất sắc trong lãnh đạo Phật giáo tỉnh Tiền Giang năm 2023
06:55
Video thumbnail
Lễ công bố văn phòng PBNG & Khai giảng lớp luật dành cho chư Ni - Chùa Bảo An, TP. Cần Thơ
22:46
Video thumbnail
PBNG TW: Tổ chức khóa bồi dưỡng về các pháp Yết-ma, nghi thức giới đàn cho chư Ni
03:35
Video thumbnail
Lễ Hoàn Kinh Dược Sư Thất Châu & An vị tôn tượng Đức thánh tổ Kiều Đàm Di - Chùa Kiều Đàm
06:18
Video thumbnail
Khóa tu báo ân - Lễ Húy kỵ cố Sư trưởng thượng NHƯ hạ THANH
17:23
Video thumbnail
Lễ Húy Nhật lần thứ 24 cố Sư trưởng thượng NHƯ hạ THANH
14:58
Video thumbnail
Chùa Từ Nguyên - Tân Phú: Lễ Khánh Tạ - Hoàn Nguyện - Lễ Húy Kỵ lần thứ 39 cố Ni trưởng khai sơn
08:50
Video thumbnail
Khí Xuân Quý Mão 2023
11:37
Video thumbnail
Hành hương thập tự 10 cảnh Chùa - Xuân Quý Mão 2023
15:24
Video thumbnail
Chùa Liên Trì - Củ Chi: Lễ cúng dường trai tăng - Xuân Quý Mão 2023
21:22
Video thumbnail
Tổ đình Huê Lâm: Mừng xuân Di lặc - PL.2566 DL.2023
09:08
Video thumbnail
PBNG Trung Ương: Báo cáo Tổng kết Công tác Phật sự - Nhiệm kỳ VIII (2017-2022) | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
15:42
Video thumbnail
Chùa Huê Nghiêm: Lễ Khánh Đản A Di Đà Phật với hơn 1000 Tăng Ni Sinh tham dự | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
04:24
Video thumbnail
Lễ Khánh Tạ Các Công Trình Chùa Pháp Võ - Huyện Nhà Bè - TP.HCM | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
06:46
Video thumbnail
Lễ Khánh Tạ Chùa Pháp Võ | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
07:42
Video thumbnail
Hội nghị Tổng kết công tác Phật sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhiệm kỳ VIII | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
02:27
Video thumbnail
Lễ Húy kỵ - Tưởng niệm lần thứ 14 cố Hòa thượng Thích Hoằng Từ | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
02:55
Video thumbnail
#2: Đại lễ tưởng niệm Đức Thánh Tổ Ni Đại Ái Đạo và Chư Vị Tiền Bối Ni Hữu Công (02/10/2020)
13:15
Video thumbnail
#1: Đại lễ tưởng niệm Đức Thánh Tổ Ni Đại Ái Đạo và Chư vị Tiền Bối Ni Hữu Công (01/10/2020)
05:52
Video thumbnail
Chùa Sắc Tứ Tam Bảo - Kiên Giang: Tổ chức Lễ húy kỵ lần II của cố Ni trưởng thượng Như hạ Hải
09:14
Video thumbnail
Lễ Công bố & Quyết định Chuẩn y nhân sự Phân ban Ni giới - Nhiệm kỳ X (2022-2027) | ĐẶC SAN HOA ĐÀM
17:11
CÁC BÀI KHÁC