Cuộc sống sẽ không có ý nghĩa nếu con người không xác định được lý tưởng sống. Chính lý tưởng sống là ngọn đèn chỉ lối, là kim chỉ nam đưa con người hướng đến cái đích cuối cùng trong cuộc đời mình.
Thái tử Sĩ Đạt Ta đã chọn một lối đi riêng, không tầm cầu, không chấp thủ, không hưởng thụ,… Đó chính là lý tưởng giải thoát. Bằng sự kiên định, Ngài đã đạt được mục tiêu và thành tựu Đạo quả. Lý tưởng đó đã soi sáng và dẫn lối cho những ai muốn sống cuộc đời giác ngộ giải thoát, chấm dứt khổ đau. Chư Tổ và bao thế hệ tiền bối đã đi và đã đến, không phải ngẫu nhiên mà đạt được, điều đó phải được đánh đổi bởi sự dõng mãnh quyết tâm, một sự kiên định không gì lay chuyển.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vừa là cơ hội nhưng cũng kèm theo những thách thức cho nhân loại nói chung vàngười xuất gia nói riêng, nhất là người xuất gia trẻ tuổi. Bài viết này, phần nào giúp chư Ni trẻ định hướng mục tiêu cao cả mình đã đi, đang đi và sẽ đến: “Sự giác ngộ, giải thoát cho tự thân và tha nhân”.
1. Đức Phật: Người ươm mầm lý tưởng giải thoát cho nhân loại
Lý tưởng giải thoát được hiểu là mục tiêu cao cả và duy nhất của những người muốn hướng đến và quyết tâm đạt được một đời sống tâm linh không còn đau khổ, không bị phiền não trói buộc, tự tại trước mọi dục lạc của trần gian, dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ tâm an nhiên, thanh tịnh, tỉnh thức. Nếu lý tưởng không được soi sáng bởi tuệ giác giải thoát thì cho dù nhân loại có đời sống vật chất thù thắng như chư thiên, rốt cuộc, tất cả chúng sanh vẫn chìm trong bóng tối vô minh, mãi luân chuyển trong sanh tử khổ đau không lối thoát. Bởi vì tất cả đều mê lầm, không nhận ra sự thật của các pháp, mạng người chỉ trong hơi thở mà lầm tưởng cả trăm năm, tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, quyền thế vô thường chóng vánh mà cứ ngỡ là thật có, thường còn.
Vì lòng bi mẫn, ngay trần gian này, Đức Phật đã thị hiện ở đời, từ bỏ ngai vị, quay lưng với cuộc sống vương giả, vượt thành xuất gia, đi tìm chân lý. Trung thành với lý tưởng, kiên định trong ý chí, cuối cùng, Ngài đã chứng ngộ và vén lên bức màn vô minh, chỉ cho chúng sanh nhận ra chân tánh, thấy rõ tướng thật của vạn pháp, ý thức được sự hình thành của vòng luân hồi vô tận, đâu là nguyên nhân dẫn đến khổ đau. Ngài đã dạy về phương pháp diệt tận nguồn gốc của sanh tử, đi đến chân trời giải thoát, an nhiên, tự tại. Lý tưởng giải thoát được ươm mầm từ đây.
2. Lý tưởng giải thoát của Đức Thánh Tổ Ni và chư Ni tiền bối qua các thời đại
Từ địa vị của một bậc mẫu nghi thiên hạ, Hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng năm trăm công nương trong hoàng tộc đã vì lý tưởng giải thoát mà khước từ đời sống nhung lụa đài các, tự tay cạo tóc, mặc áo nhuộm, đi chân trần, bộ hành hơn hai trăm cây số, lội suối trèo đèo, dầm sương dãi nắng đi đến tinh xá, chỉ để cầu Phật cho xuất gia, sống đời Phạm hạnh. Dù đôi chân rướm máu, thân hình gầy guộc, y phục lấm lem, các vị vẫn kiên định với lý tưởng cầu giải thoát. Khi đã được Đức Phật chấp nhận cho xuất gia và thành lập Ni đoàn, Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo đã thể hiện sự kiệt xuất trong vai trò lãnh đạo Ni giới. Dù đảm nhiệm trách vụ lãnh đạo Ni đoàn hay làm nhiều Phật sự có ích cho nhân quần xã hội, lý tưởng giải thoát vẫn được Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo và Giáo đoàn Ni đặt làm mục tiêu hàng đầu. Do thế, sau khi lĩnh hội giáo pháp từ Đức Thế Tôn, các Ngài đã nỗ lực quán chiếu và đều chứng Thánh quả, tự tại giải thoát giữa hai bờ sanh tử.
Tiếp nối dòng giống Kiều Đàm, nữ giới trên khắp năm châu đã đi theo lý tưởng giải thoát. Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu, từ thuở Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm phương Bắc, đã có Công chúa Bát Nàn, Công chúa Phù Vương, chẳng ngại thân nữ nhi yếu đuối thiết tha với lý tưởng giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, xông pha tiền tuyến cùng với Trưng Nữ Vương đánh đuổi giặc ngoại xâm. Thắng trận, các nàng từ bỏ vinh hoa phú quý, lui về sống đời tu sĩ với lý tưởng giải thoát cao đẹp. Đi theo lý tưởng ấy, còn có Công chúa Chiêu Dung, nữ tướng Vĩnh Huy và Phương Dung Công chúa,… Sau khi Hai Bà Trưng tuẫn tiết vì thua trận, các nàng đã gác lại chuyện thế gian, tìm về cửa đạo, an vui trong Chánh pháp giải thoát.
Dưới triều Lý Thánh Tông, Công chúa Lý Ngọc Kiều sau cái chết của phu quân đã ngộ lẽ vô thường, đi theo lý tưởng giải thoát, cầu xuất gia với thiền sư Chân Không – vị Tổ thứ 16 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, được ban Pháp hiệu là Diệu Nhân. Một đời nỗ lực tu tập, liễu ngộ Chánh pháp, đạt được lý thiền, thừa hành Phật sự, phổ hóa chúng sinh, Ni sư Diệu Nhân được Tổ trao truyền, kế vị làm Tổ thứ 17 của dòng thiền đang thịnh hành thời bấy giờ.
Đời Trần có Ni sư Hương Tràng, tức Huyền Trân Công chúa và Ni sư Hương Nghiêm từ giã lầu son, địa vị cao quý, bước theo con đường giác ngộ của Phật Tổ, mở lớp dạy học, tiếp độ Ni lưu, truyền bá Chánh pháp, chữa bệnh, cứu tế dân nghèo. Chính với hành trạng như vậy nên từ triều Lê đến nhà Tây Sơn, rồi các triều vua Nguyễn, Ni sư đều có sắc phong. Ni sư Từ Quán, con quan nhà Trần, nêu cao lý tưởng giải thoát, xuất gia học đạo, tuệ giải tinh thông, danh tiếng lẫy lừng, đạo tục xa gần đều kính mộ, là bậc Tôn sư của Ni chúng cả nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc cao Tăng, được vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) ban hiệu Huệ Thông Đại sư.
Thời chúa Trịnh Tráng có Ni sư Diệu Viên (vốn là Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Trúc, hoàng hậu của Vua Lê Thần Tông) và con gái là Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên, pháp hiệu Diệu Tuệ, tiếp nối lý tưởng giải thoát, góp phần làm Phật pháp được hưng long.
Những triều đại kế tiếp cho đến thế kỷ XX và những thập niên đầu thế kỷ XXI đều có các bậc danh Ni tiêu biểu, tài đức song toàn, hạnh giải kiêm ưu như Ni sư Diệu Chân, Ni sư Hải Bình, Ni sư Diên Trường, Ni trưởng Đàm Thái, Ni trưởng Đàm Soạn, Ni trưởng Đàm Thu, Sư cụ Diệu Tịnh, Sư bà Diệu Tấn, Sư trưởng Như Thanh, Sư bàLiễu Tánh, Sư bà Diệu Không, Ni trưởng Huỳnh Liên, Sư bà Huyền Huệ, Sư bà Huyền Học, Ni trưởng Trí Hải,… Không phải ngẫu nhiên mà hành trạng của Quý Sư trưởng được lưu danh trên trang sử vàng của Ni giới Việt Nam. Quý Ngài đã vượt qua bao chông gai thử thách, nhất là xã hội Việt Nam thời kỳ còn mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, việc học việc tu đầy vất vả, gian nan nhưng với lý tưởng giải thoát, Quý Sư trưởng đã nỗ lực công phu, nâng tầm, cùng với Đại Tăng góp phần chấn hưng ngôi nhà Phật pháp và thành lập Ni bộ, xây dựng Ni đoàn vững mạnh đến ngày nay. Hiện tại có Quý Ni trưởng giới hạnh thanh cao, là những bậc thạch trụ tòng lâm, đã và đang lãnh đạo chư Ni cả nước, như Ni trưởng Tịnh Nguyện, Ni trưởng Tân Liên, Ni trưởng Huệ Hương, Ni trưởng Như Như, Ni trưởng Nhật Khương,… Dù niên đã cao, sức khỏe hạn chế nhưng vì tiền đồ của Phật pháp, vì tương lai của chư Ni trẻ hay vì lý tưởng giải thoát mà Quý Ngài chẳng ngại xả thân.
3. Chư Ni trẻ thời hội nhập và lý tƣởng giải thoát
Trong thời kỳ hội nhập, phát triển, chư Ni trẻ có rất nhiều cơ hội và cả những thách thức trên con đường tu tập, dấn thân phụng hành Phật sự.
3.1. Về cơ hội
Thời nay, nam và nữ đã bình đẳng. Giáo hội đã tạo điều kiện và khuyến khích chư Ni trẻ tham gia các chương trình Phật học từ Sơ cấp đến Tiến sĩ, hầu trang bị những kiến thức cần và đủ để phục vụ cho việc hoàn bị tự thân và công tác hoằng dương Chánh pháp. Song song với việc theo các cấp học của Phật giáo, chư Ni trẻ cũng tranh thủ đạt thêm các văn bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ của thế học trong và ngoài nước nhằm nâng cao kiến thức, từ đó hỗ trợ việc quảng bá Phật pháp đến mọi tầng lớp nhân dân trong thời đại tri thức con người đã đạt tới đỉnh cao. Thêm vào đó, chư Ni trẻ còn được tham gia các khóa bồi dưỡng – đào tạo của Trung ương Giáo hội tổ chức về các lãnh vực chuyên môn như: giáo dục, hoằng pháp, hướng dẫn Phật tử, thông tin truyền thông, nghiệp vụ hành chánh, nghiệp vụ trụ trì,… Sau khi được đào tạo, chư Ni trẻ đã được Giáo hội tạo điều kiện cho đem tài năng và sức trẻ phụng sự Đạo pháp – Dân tộc, qua việc được tham gia các ban ngành của Giáo hội, nhất là trong công tác giáo dục; đôi khi chư Ni còn được phép chia sẻ kiến thức với cả Tăng lẫn Ni. Đạy là ân huệ dành cho Ni giới nhưng cũng là điều chư Ni trẻ cần phải cẩn trọng trong việc giữ gìn Bát Kỉnh Pháp đối với Đại Tăng. Bên cạnh đó, chư Ni trẻ còn được Giáo hội hay Phân ban Ni giới thuộc Ban Tăng sự cho phép tham dự và phục vụ các Đại lễ quan trọng của Phật giáo như: Đại lễ Phật Đản, Đại lễ Tưởng niệm Đức Thánh Tổ Ni Đại Ái Đạo và chư Ni tiền bối hữu công Việt Nam, Đại lễ Kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Giáo hội Phật Giáo Việt Nam,… hoặc tham dự nhiều hội thảo khoa học trong và ngoài nước,… Nhờ vậy, chư Ni trẻ có dịp được chiêm ngưỡng và lắng nghe những công hạnh cao quý, vĩ đại của các Ngài, từ đó noi theo tu tập,… Đây là cơ hội cho chư Ni trẻ được ươm mầm lý tưởng giải thoát, khẳng định hướng đi mình đã chọn và đang dấn thân.
3.2. Về thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, còn có không ít thách thức luôn chờ đón và sẵn sàng nhấn chìm những đệ tử Phật không quyết tâm theo đuổi lý tưởng giải thoát, không kiên định với mục tiêu mà mình đã chọn.
Điều đầu tiên phải nói đến là bối cảnh xã hội ngày nay, mỗi gia đình chỉ có một đến hai con, dù hoàn cảnh thế nào thì cha mẹ cũng vẫn nuông chiều con cái hết mực và sẵn sàng dang rộng vòng tay đón con về. Vì vậy, nhiều tự viện chỉ có một thầy một trò, đôi lúc thấy đệ tử sa đà trong danh lợi cũng không dám rầy dạy; điều này ảnh hưởng rất lớn đến lý tưởng giải thoát của chư Ni trẻ.
Lại nữa, trong xu thế con người chạy theo văn bằng, kiến thức để bắt kịp với sự phát triển của xã hội, người xuất gia trẻ thời nay thường không đủ duyên để được ở cạnh vị Thầy Bổn sư. Phật chế định, với đệ tử mới xuất gia, phải có 5 năm ròng chuyên Giới Luật. Nhưng hiện nay, trong khoảng thời gian đó, người xuất gia cũng phải đăng ký dự học ở các trường Phật học, do đó, những thói quen phàm phu, tâm tánh đời thường chưa được Thầy tổ gột rửa, khuôn vàng thước ngọc của Giới pháp chưa được uốn nắn. Hệ quả là, khi lên các cấp học cao thì tri thức và phẩm hạnh không được cân bằng, lý tưởng giải thoát, mục tiêu duy nhất của người xuất gia khó mà đạt được.
Điều đáng nói hơn nữa là những thành tựu vĩ đại của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay khiến cho tất cả đều được hiện đại hóa. Mọi nhu cầu về vật chất của con người cũng theo đó mà được đáp ứng tốt hơn. Đây là một yếu tố quan trọng tác động, làm nhiều vị Ni trẻ dao động trước dục lạc hấp dẫn của thế gian.
Bên cạnh đó, bối cảnh hội nhập và phát triển cũng có sự tác động nhất định đến chư Ni trẻ, ở cả mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, mọi kiến thức cần tiếp cận để học tập, nghiên cứu, về cơ bản đều có trên Internet; việc quảng bá để Phật pháp lan tỏa khắp toàn cầu cũng dễ dàng hơn do có thể đưa các bài giảng, các hoạt động Phật sự lợi Đạo ích đời lên các nền tảng Youtube, Facebook… Đây là những giá trị mà khoa học kỹ thuật hiện đại đem lại. Tuy nhiên, việc sử dụng các thiết bị điện tử cũng khiến chư Ni dễ dàng truy cập các trang mạng có nội dung trái với Phật pháp; do vậy có thể làm ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình tu tập. Đây là vấn đề nhức nhối làm các bậc Tôn túc lãnh đạo Giáo hội cùng Quý Ni trưởng lãnh đạo Phân ban Ni giới phải trăn trở, ưu tư. Trong các phiên họp cũng như các hội thảo chuyên đề do Giáo hội tổ chức, vấn đề này thường xuyên được đề cập đến; cũng có nhiều giải pháp được đưa ra nhưng hiệu quả chưa cao. Theo người viết bài này:
Trước hết, các bậc Thầy Ni (đặc biệt là những Thầy Ni trẻ) hội đủ hai pháp nhiếp thủ, luôn quan tâm, ân cần giáo dưỡng, nhắc nhở đệ tử, nhất là chư Ni trẻ, phải chuyên tâm hướng về mục tiêu mình đã chọn.
Tiếp theo, chư Ni trẻ phải tự khẳng định:
– Tại sao mình chọn con đường xuất gia? Xuất gia với mục đích gì?
– Dù là căn lành hay vì một lý do nào đó được xuất gia, dù vì lý tưởng giải thoát hay không phải, nhưng khi tiếp cận Chánh pháp, hiểu được giá trị của mục đích xuất gia, thiết nghĩ chư Ni trẻ cần phấn đấu để kiên định với lý tưởng, dẫu hoàn cảnh thế nào cũng không lay chuyển.
– Nhận định con đường xuất gia học Phật mà mình chọn là đúng.
– Ý thức được bổn phận của người xuất gia đệ tử Phật.
– Nỗ lực học tập Kinh, Luật, Luận và tinh tấn tu tập Giới – Định – Tuệ (Văn, Tư, Tu – Tam huệ).
– Cảm nhận nguồn chân hạnh phúc khi thực hành Giáo pháp.
– Nhận thức rõ tướng thật của các Pháp để không mê lầm, chạy theo dục lạc trần gian. Thấu rõ nỗi khổ niềm đau của chúng sanh mà phát tâm Bồ-đề.
– Thường xuyên nhớ đến bốn trọng ân và nghĩ tới việc phải đền trả.
– Không sống và làm việc theo bản năng mà luôn lấy gương sáng của Phật Tổ, Thánh Tổ, chư Ni tiền bối để soi sáng, trau dồi phẩm hạnh, giới đức, phát huy nguồn năng lực sống từ tu tập Giới – Định – Tuệ, chứ không đơn thuần là kiến thức.
– Tự soi sáng như lời Phật đã dạy: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi”.
– Trọn vẹn với niềm tin: Ni giới cũng có khả năng chứng đắc Đạo quả như Đại Tăng.
Kết luận
Chư Ni trẻ là thế hệ kế thừa. Nếu tu đúng, có định hướng rõ ràng, sẽ là bậc lương đống cho Phật pháp, làm cho Tăng đoàn vững mạnh, Phật pháp được quang huy, nhân sinh được lợi lạc. Chư Ni trẻ nếu tu sai, không định hướng, sẽ dẫn đến tự thân đọa lạc và là yếu tố cho sự cơ hiềm, phá vỡ niềm tin của tín đồ Phật tử, từ đó Phật pháp bị lu mờ, chúng sanh không được an ổn.
Trước xu hướng toàn cầu hóa, đất nước trong giai đoạn hội nhập và phát triển, chư Ni trẻ phải định hướng rõ ràng mục tiêu lý tưởng giải thoát của mình; dù làm gì, ở đâu, lúc nào, “LÝ TƯỞNG GIẢI THOÁT” cũng là mục tiêu quan trọng nhất, cao nhất so với tất cả. Chư Ni trẻ có thể biến thách thức thành cơ hội để phục vụ việc tu học và hành đạo. Những thách thức được xem như các trang sức, làm đẹp thêm phẩm hạnh của con người giải thoát và sẵn sàng dấn thân phụng sự Đạo pháp, phục vụ nhân sinh.
Trong Thiền Lâm Bửu Huấn, Hòa thượng Viên Thông đã dạy: “Phàm người ở chốn tòng lâm tự mình không duy trì lấy đạo đức ở nội tâm lại nương cậy vào quyền thế ở bên ngoài, một mai thế lực đó mất đi, đều không tránh khỏi cái họa khuynh đảo.”
Ngài Edward Gibbon nói: “Mọi người đều hấp thụ được hai thứ giáo dục. Một thứ là do người khác tạo ra, còn một thứ quan trọng hơn nhiều là do chính mình tự tạo cho mình”1.
Qua những lời dạy trên, chư Ni trẻ hãy suy nghiệm và chọn cho mình một cách sống để không cô phụ tánh linh và chí nguyện xuất gia, ngõ hầu làm xương minh Phật pháp, mới mong đền trả bốn ân, cứu giúp các loài hàm thức.
TKN. Thích nữ Tịnh Nghiêm
- Từ điển danh ngôn Đông Tây, tr.208.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NT. Nhật Khương (Chủ biên, 2023), Ni giới Bình Phước – Sự dấn thân và truyền trì Chánh pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nữ Phật tử với Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. ‚Lý tưởng sống‛, http://timviec365.vn.
4. Nữ giới Phật giáo Việt Nam: Truyền thống và hiện đại, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Nữ giới Phật giáo (2020), Ni giới Thành phố Hồ Chí Minh – Tiềm năng, Hội nhập, Phát triển, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.