“Như Thanh Độc Giác Thiền sư
Kim Cang bất hoại chân như sáng ngời…”
(Cánh hoa sen – Thiền sư Nguyên Như)
Vào khoảng năm 1992-1999, tôi không còn nhớ chính xác, một Sư đệ đọc cho tôi nghe bài thơ Cánh hoa sen của Thiền sư Nguyên Như, tôi liền ấn tượng với hai câu thơ trên. Ý thơ diễn đạt sâu lắng về tuệ giác và tâm hạnh của một bậc Thầy khả kính, đó là Cố Sư trưởng thượng Như hạ Thanh – Trưởng Ni bộ Bắc tông tại miền Nam và miền Trung.
Năm 1992, tôi gửi cháu Quảng Phước (nay là Sư cô Như Phước) tu tập tại chùa Đông Thuyền (Huế) vào đầu Sư với Sư trưởng Viện chủ Tổ đình Huê Lâm (680 Hồng Bàng, P.2, Q.11, TP.HCM), đó là một trong những cơ hội để tôi được diện kiến Ni trưởng nhiều lần.
Một hôm, khi tôi ghé qua tịnh thất Tuệ Uyển và Thiền viện Vạn Hạnh, thì Sư tỷ Trí Hải rủ tôi đến Tổ đình Huê Lâm để hầu thăm Sư trưởng. Hôm đó hai chị em chúng tôi được Người mời ở lại dùng cơm trưa. Sau giờ ngọ trai, chúng tôi ở lại hầu chuyện với Sư trưởng và được nghe những thi phẩm của Người, tôi nhận thấy con người đức độ của Sư trưởng qua những áng thơ ấy. Tôi cũng đặc biệt ấn tượng với nội dung của hai câu trong bài Con ơi, đã diễn tả chí khí cao cả của một bậc long tượng trong Ni giới vào những năm đầu của thế kỷ XX.
Người viết:
“… Trời cao tung vượt cánh hồng
Lập nên đạo cả, trọn xong lời nguyền.”
(Con ơi – Bài 5)
Giờ đây, khi dòng hồi ức được tái hiện qua năm ba câu chữ, càng khiến tôi xao xuyến về chuỗi kỷ niệm với Sư trưởng.
Năm 1977, tôi vào Sài Gòn ghé thăm chùa Diệu Giác, rồi đến Đại Tòng Lâm để thăm Sư tỷ Như Cát và Sư muội Huệ Hương (Ni trưởng là Y chỉ sư của Sư tỷ và Sư muội). Trước khi đến Bà Rịa thăm am tranh Phổ Minh – nơi các tỷ muội đang tu học. Tôi được Sư muội Bảo Minh hướng dẫn đường đi, Sư muội nói đùa: “Chị đến cổng Đại Tòng Lâm phải đi bộ thêm một ngày đường mới đến am tranh Phổ Minh.” Nghe vậy, tôi phải chuẩn bị tâm thế và hành trang để đến nơi thăm các tỷ muội. Lúc đi, lòng đầy lo âu và hồi hộp. Ai ngờ, từ cổng chùa Đại Tòng Lâm, vừa cuốc bộ khoảng 15 phút, thì đã gặp tượng Bổn Sư thờ dưới cây Bồ đề và Sư tỷ Như Cát đang gặt lúa trên một mảnh ruộng nhỏ gần đó, người thấm đẫm mồ hôi trông thật tội nghiệp. Tôi ngập ngừng nghĩ rằng: “Bảo Minh nói phải đi cả ngày đường mới đến am tranh, ai dè… lại gặp được Sư tỷ Như Cát một cách bất ngờ và nhanh chóng như thế .” Tôi dừng lại bên đường và đứng sững ngỡ như đang trong giấc mơ.
“Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao”.
Kể từ đó, gần như năm nào tôi cũng vào Sài Gòn để ghé thăm các tỷ muội ở Diệu Giác, cũng như thăm Sư muội Bảo Minh ở phòng thuốc tại Tổ đình Huê Lâm và Sư tỷ Như Cát, Sư muội Huệ Hương ở khu Đại Tòng Lâm. Cả ba vị này đều là đệ tử y chỉ của Sư trưởng Viện chủ Tổ đình Huê Lâm I và II, do Ni trưởng Bổn sư tôi (Ni trưởng thượng Diệu hạ Không) gửi gắm. Chúng tôi được biết đạo tình thắm thiết giữa Cố Sư trưởng Như Thanh và Ni trưởng Bổn sư của chúng tôi, nên mỗi lần được hầu chuyện với Sư trưởng, chúng tôi luôn cảm thấy vô cùng nồng ấm bởi tính cách bình dị, hoan hỷ và mẫn tiệp của Người.
Đối với Cố Sư trưởng Viện chủ Tổ đình Huê Lâm, quý tỷ muội Trí Hải – Như Cát – Huệ Hương – Bảo Minh đều xem Người như Bổn sư của mình. Thời gian tu học và làm Phật sự của các vị này ở miền Nam nhiều hơn ở Huế nên được Ni trưởng dìu dắt tận tình, tỉ mỉ và luôn xem các vị này như chính đệ tử của Người.
Vào những năm 1962-1972, Sư tỷ Như Cát, Sư muội Huệ Hương, Bảo Minh và tôi đều được tu học với Đại chúng cùng quý Ni trưởng Bổn sư, Ni trưởng trú trì thượng Viên hạ Minh, Ni trưởng thượng Thể hạ Quán và Ni trưởng thượng Cát hạ Tường ở chùa Hồng Ân.
Thời điểm đó, kinh tế còn hạn hẹp, riêng Sư tỷ Như Cát, Sư muội Huệ Hương, Bảo Minh đang gặp phải những thử thách hết sức cam go về tinh thần, nên bốn chị em chúng tôi thường chia sẻ với nhau những giây phút thăng trầm của nghiệp lực ở nơi chốn Tổ để dìu nhau vượt qua những giai đoạn khó khăn. Rồi sau đó, Ni trưởng Bổn sư của chúng tôi đã gửi Sư tỷ Như Cát vào Phật Học viện Từ Nghiêm, Sư muội Huệ Hương, Bảo Minh vào tu học ở chùa Diệu Giác – Sài Gòn. Khi giải phóng, Bảo Minh được thuyên chuyển đến làm Phật sự tại phòng thuốc từ thiện và tu tập với Đại chúng Tổ đình Huê Lâm, Sư tỷ Như Cát, Huệ Hương về khu Đại Tòng Lâm lập am tranh Phổ Minh để tu học.
Kể từ đó chị em chúng tôi người sống tại Huế, kẻ vào Nam. Ở Hồng Ân, tỷ muội chúng tôi thường lao động sản xuất trên nương rẫy để độ nhật, thực phẩm chính hàng ngày là khoai lang và khoai mì, thỉnh thoảng mới có một bữa cơm trắng. Nơi khu Đại Tòng Lâm, Sư tỷ và Sư muội Huệ Hương cũng khai khẩn đất hoang trồng củ quả và các loại rau để sinh sống qua ngày. Chùa Huê Lâm II của Cố Sư trưởng Như Thanh đã tôn tạo trong khu Đại Tòng Lâm nên Ni trưởng Bổn sư tôi đã gửi các vị này y chỉ với Sư trưởng Viện chủ Tổ đình Huê Lâm. Cuộc sống của các chị ấy thuở đó hết sức đạm bạc, mỗi ngày dùng hai phần khoai, một phần cơm, có khi nấu cháo rau má với một bát cơm nguội, chứng kiến hoàn cảnh đó, tôi không tài nào cầm được nước mắt. Vì thế, mỗi lần vào Bà Rịa – Vũng Tàu để thăm quý chị, tôi thường mua theo bánh mì, đậu phụ chiên, bún gạo và kẹo mè xửng từ Huế để cúng dường các tỷ muội.
Cùng với thời gian, tình chị em chúng tôi mỗi ngày thêm gắn kết. Nhờ đức lành của Cố Sư trưởng Viện chủ và Ni trưởng Như Ấn chùa Huê Lâm II che chở, cuộc sống của Sư tỷ Như Cát và Huệ Hương được ổn định theo năm tháng. Am tranh Phổ Minh bây giờ đã được xây dựng thành ngôi tịnh thất Phổ Minh tọa lạc uy nghiêm tại Đại Tòng Lâm cũng nhờ ân đức của Cố Sư trưởng Như Thanh và Bổn sư của chúng tôi.
Năm 1973, giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, đây là giới đàn tôi có duyên được lãnh thọ cụ túc giới. Theo dự tính của ban kiến đàn thì Cố Sư trưởng thượng Như hạ Thanh là Hòa thượng Ni đàn đầu, nhưng sắp đến ngày tổ chức giới đàn, Người có bệnh duyên nên Ni trưởng tọa chủ chùa Thiền Quang, TP.HCM phải thay thế, chúng tôi không có cơ hội được diện kiến Người.
Cách đây 10 năm, khi Sư tỷ Như Cát còn sống, tôi có ghé Huê Lâm II ở trong khu Đại Tòng Lâm để viếng thăm chùa và Ni trưởng Như Ấn là một trong những vị đệ tử lớn của Cố Sư trưởng. Lúc bấy giờ, đại chúng ở đây rất đông. Ni trưởng Như Ấn đã tiếp đón chúng tôi rất nhiệt tình, mật thiết như những người thân quen từ trước.
Mới đây, trong tháng 12 năm Đinh Dậu (2017), nhân dịp đưa nhóm họa sĩ Phật tử đến tham quan khu Đại Tòng Lâm và các Thiền viện của Hòa thượng thượng Thanh hạ Từ, tôi có ghé lại tịnh thất Phổ Minh để thăm các đệ tử của Sư tỷ Như Cát và Sư muội Huệ Hương. Trước khi trở về Huế, tôi trở lại thăm chùa Huê Lâm II. Khi đứng trước di ảnh và Bảo tháp của Cố Sư trưởng, lòng tôi bùi ngùi tưởng nhớ đến một thời vàng son của các Tổ đình Huê Lâm, Phổ Đà, Hải Vân… Điều xót xa khiến tôi thao thức nhất đó là: Tại chùa Huê Lâm II chỉ có 4 Ni sư còn lưu trú để chăm sóc ngôi Tam bảo. Ni trưởng Như Ấn đang điều trị bệnh tại Tổ đình Huê Lâm, tình trạng sức khỏe rất yếu.
Tuy lòng rất muốn thăm lại Tổ đình Huê Lâm và Ni trưởng Như Ấn, nhưng vì thời gian eo hẹp nên tôi đành bỏ lỡ cơ hội. Thật vô cùng đáng tiếc! Hy vọng trong tương lai gần đây khi có dịp trở lại thành phố Hồ Chí Minh tôi sẽ có duyên ghé thăm Ni trưởng Như Ấn.
Trở về Huế thăm lại Tổ đình Hồng Ân, tôi nhớ lại một thời đông vui với trên 150 Ni chúng, thế mà bây giờ, khi quý vị Tôn đức Ni của Tổ đình đã khuất bóng quy Tây, còn lại chưa tới 15 vị, các tỷ muội mỗi người một phương để thuận duyên hành đạo. Giờ đây, chốn chùa xưa trở nên lạnh bóng các bậc long tượng và không còn không khí ấm áp, rộn rã như ngày nào…
Hơn một tháng nữa là đến lễ Kỷ niệm ngày viên tịch của Cố Sư trưởng thượng Như hạ Thanh, do đệ tử tứ chúng của Cố Sư trưởng tổ chức tại Tổ đình Huê Lâm cùng các chùa trực thuộc và chừng một hai tuần sau đó là giỗ Tổ Kiều Đàm Di do Phân ban Ni giới Đồng Nai đăng cai tổ chức, tôi thành kính dâng đôi dòng tưởng niệm để hướng về các đại lễ.
Trước khi kết thúc những dòng lưu niệm này, tôi xin trích dẫn lời kết trong bài Một cánh Hoa Đàm của Đại đức Thích Thiện Thuận viết trong tập Ni trưởng Như Thanh: Cuộc đời và sự nghiệp: “Nếu Diệu Nhân Thiền sư Ni vang danh miền Bắc Việt, Hồng Ân – Diệu Không Ni trưởng rực rỡ xứ Hương Giang – Ngự Bình đất Trung phần, thì Nam bộ hiền hòa – Ni trưởng Như Thanh tỏa ngát như một cánh Hoa Đàm.”
TKN. Diệu Đạt
Sc Vạn Dung diễn đọc