1. Tiểu sử Thánh Tổ Kiều Đàm Di trong bối cảnh Ấn Độ cổ
Đức Thánh tổ Ni Đại Ái Đạo tên đầy đủ là Mahàpajàpati-Gotami, Hán ngữ phiên âm là Ma Ha Ba Xà Ba Đề, dịch nghĩa là Đại Ái Đạo hay Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di, Người là em gái của hoàng hậu Ma Da, con út vua Thiện Giác thành Thiên Túy thuộc Ấn Độ xưa, và là Di mẫu của thái tử Tất Đạt Đa. Ma Ha Ba Xà Ba Đề, vì là Di mẫu của Đức Phật, nên ngài thường được gọi bằng một tên đặc biệt là Kiều Đàm Di (Gautami- Gotami), có nghĩa là con gái của dòng họ Cồ Đàm. Bởi vậy, có lúc tên ngài đã được gọi một cách đầy đủ là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di.
Khi thái tử Tất Đạt Đa đản sinh được 7 ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời, Kiều Đàm Di thay chị, trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng thái tử cho đến khi khôn lớn. Di mẫu Kiều Đàm Di dung mạo xinh đẹp, tính nết đoan trang, hiền hậu, khả ái, phẩm hạnh thánh thiện cao cả trong cung ai cũng ngưỡng mộ cung kính, đặc biệt Vua Tịnh Phạn rất sủng ái Di mẫu. Sau khi hoàng hậu Ma Da qua đời, Di mẫu được đưa vào vị trí thay thế hoàng hậu hết lòng yêu thương chăm sóc thái tử Tất Đạt Đa hơn con đẻ của mình. Lúc thái tử còn nhỏ, tuy đã có 32 cung nữ hầu hạ, nhưng Di mẫu Kiều Đàm Di vẫn không yên lòng. Ngài muốn chính mình tự tay chăm sóc thái tử từ giấc ngủ, miếng ăn, kể cả việc nhỏ nhất như chọn quần áo để mặc hằng ngày v.v… Mỗi việc đều một tay ngài sắp xếp. Thái tử dù đã mất mẹ, nhưng bù lại được dì thương yêu chăm sóc chu đáo như mẹ ruột nên rất an vui trong cuộc sống lúc bấy giờ. Năm thái tử Tất Đạt Đa được 14 tuổi, Di mẫu sinh hoàng tử Nan Đà (Nanda), và năm sau thì sinh công chúa Tôn Đà Lị Nan Đà (Sundari Nanda).
Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa đi xuất gia, từ bỏ ngai vàng, điện ngọc…Di mẫu ở lại Kinh thành, tâm lúc nào cũng nhớ thương Thái tử, bà dõi theo tin tức của Thái tử, đồng cảm cùng con đường Thái tử đã chọn và đồng thời ngài cũng một lòng tu tập, hành thiền. Di mẫu nghe tin Đức Phật sẽ về thăm quê hương, nên ngài đã ngày đêm tự xe chỉ, dệt vải may y để dâng cúng Đức Phật. Sau khi may y xong, ngài dâng đến Đức Phật bạch rằng: “Tôi tự xe chỉ, tự dệt, rồi tự mình may bộ y này, xin Đức Thế Tôn nhận lĩnh”. Đức Phật từ chối, nói: “Di mẫu hãy dâng cúng y này đến Chư tăng, nếu Di mẫu cúng đến Chư tăng, thì chính Như Lai cũng được dâng cúng rồi”. Ngài thỉnh cầu Đức Phật ba lần nhưng Đức Phật đều từ chối. Lúc bấy giờ Tôn giả A Nan thấy thế không cầm lòng được bèn bạch Đức Phật rằng: “Bạch Ngài, xin Ngài nhận lĩnh y do Di mẫu Pajāpatī dâng cúng. Di mẫu Pajāpatī có rất nhiều ân đức với Ngài. Khi hoàng hậu Ma Da qua đời, lúc bấy giờ Ngài mới được sinh ra 07 ngày. Di mẫu đã dùng sữa của mình để nuôi dưỡng Ngài, và giao con mình cho người khác chăm sóc. Di mẫu đã có nhiều công đức với Ngài. Xin Ngài hãy nhận y do Di mẫu dâng cúng. Bấy giờ Đức Phật hoan hỷ nhận lời và thuyết giảng một bài pháp về “Bố thí không tham ái” , bài pháp ấy được thể hiện rõ trong bài “Kinh Phân biệt cúng dàng”.
Năm thứ 05 sau ngày Đức Phật thành đạo, Đức Thế Tôn trở về thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) để độ vua cha đang lâm trọng bệnh sắp băng hà. Nhờ những lời pháp vi diệu của Đức Phật đã giúp vua cha hoan hỷ lĩnh hội, chứng đắc quả A La Hán, an trú vào tịnh lạc, rồi băng hà. Lo việc an táng cho vua cha xong, Đức Phật lưu lại thành Ca Tì La Vệ 3 tháng để hóa độ dân chúng quanh vùng.
Trong thời gian đó, Ngài ngự tại công viên Ni Câu Đà (Nyagrodha-Nigrodha), cách kinh thành khoảng hai dặm về hướng Nam. Sau biến cố đó, Kiều Đàm Di mẫu đã thấu hiểu lẽ vô thường thống khổ của kiếp nhân sinh, nên ngài quyết chí tầm cầu đạo giải thoát. Tại vườn Ni-câu-đà (Nigrodha), Di mẫu Kiều Đàm Di đã xin phép Đức Phật cho ngài và 500 Cung nữ đi xuất gia làm Nữ sa môn nhưng qua ba lần thưa thỉnh, Đức Phật đều từ chối. Di mẫu buồn bã trở về cung. Sau đó Đức Phật rời Ca Tì La Vệ và đi đến hành hóa tại thành Tì Xá Li (Vaisali-Vesali) ngự tại tu viện Trùng Các (Kutagarasala) trong rừng Đại Lâm (Mahavana).
2. Hạnh nguyện xuất gia tu hành của Thánh tổ Kiều Đàm Di
Sau khi thành đạo khoảng 03 năm, Đức Phật trở về hoàng cung thăm Vua cha, Di mẫu và hoàng tộc, hóa độ hoàng gia. Trong lần này, khi nghe Đức Phật thuyết bài kinh Đại Pháp Hộ, Di mẫu Kiều Đàm đã chứng đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn, sở dĩ Đức Phật từ chối không cho Di mẫu và 500 cung nữ đi xuất gia vì Đức Phật là bậc đại từ bi, đại trí tuệ, Ngài nhìn thấu mọi sự, thông suốt chuyện quá khứ hiện tại, vị lai. Ngài biết rõ người Nữ thân thể yếu đuối, nặng về ngã chấp, ưu nói lỗi người, ích kỷ, đố kỵ v.v… Nhưng bên cạnh đó, lại tiềm ẩn nhiều đức tính tốt như từ bi, nhẫn nại, sức chịu đựng bền bỉ, ý chí kiên cường… nếu phát huy tốt những phẩm hạnh cao quý này thì người nữ không hề thua kém người nam, nên Ngài muốn đánh thức, khơi dậy ý chí quật cường, những đức tính trượng phu, ẩn tàng trong thân tướng nữ nhi, cũng là để nhắc nhở cho nữ giới biết được mình vốn sẵn có những khả năng đặc biệt cần phát huy, đồng thời phải làm cho tiêu mòn những tính xấu, nhất là tính ngã chấp thì mới có thể bước vào con đường tu tập giải thoát, giác ngộ được.
Sau ba lần xin Đức Phật xuất gia đều bị từ chối, Kiều Đàm Di mẫu và 500 Công nương vẫn không từ bỏ ý chí xuất trần, bèn tự xuống tóc, đắp y vàng, đầu trần, chân đất bộ hành đến thành Tỳ-xá-ly (Vesàli) khoảng đường dài hơn 200 km. Những cung phi hàng quý tộc quen sống trong nhung lụa, nay phải đầu trần, chân đất đi bộ một khoảng đường rất xa, đôi chân các vị sưng lên, rướm máu, mình đầy bụi bặm, thân thể mệt nhoài. Tôn giả A Nan nhìn thấy tình cảnh đó, lòng đầy xúc động, cảm kích ý chí cầu pháp của Kiều Đàm Di mẫu và 500 công nương, liền chuyển lời thưa thỉnh của Kiều Đàm Di mẫu đến Đức Phật cầu xin xuất gia nhưng qua ba lần thưa thỉnh đều bị Đức Phật từ chối, Tôn giả A Nan không hiểu vì lý do gì mà Đức Phật không cho nữ giới xuất gia, bèn bạch Phật rằng: “Kính bạch đức Thế tôn! Không biết Nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A La Hán quả không?”
Lúc bấy giờ Đức Phật thấy dù bị nhiều lần từ chối nhưng Di mẫu vẫn không thối chí nản lòng. Lúc này, Phật nhận thấy những đức tính tốt tiềm ẩn trong Kiều Đàm Di mẫu và 500 Công nương đã trỗi dậy, cộng thêm những lời thưa hỏi của A Nan đã đủ và đến lúc có thể cho Nữ giới xuất gia, Ngài liền dạy: “Này A Nan! sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A La Hán quả.”… “Này A Nan, nếu Di mẫu chấp nhận bát kính pháp… thì sẽ được xuất gia”.
Tôn giả A Nan hoan hỷ truyền lại lời Đức Phật dạy và tuyên đọc bát kính pháp, Di mẫu và 500 công nương hoan hỷ cung kính lĩnh thụ. Ngay sau đó, Đức Phật cho thành lập Ni đoàn, từ đó Giáo đoàn Tỳ kheo Ni được hình thành dưới sự lãnh đạo của Kiều Đàm Di mẫu, và cũng từ đó cánh cửa giải thoát không chỉ dành riêng cho Nam giới mà Nữ giới cũng có thể bước vào. Tôn giả Kiều Đàm Di là vị Tỳ kheo Ni đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, không chỉ là người trực tiếp nuôi dưỡng thái tử Tất Đạt Đa (Đức Phật Thích Ca sau này) từ thuở ấu thơ mà còn là người đã giúp cho người nữ được xuất gia. Thời đó, trong Tăng đoàn không có người nữ, vì Đức Phật biết, nếu người nữ xuất gia thì sự tồn tại của chính Pháp sẽ giảm tổn. Tuy nhiên, nhờ tâm đại ái đạo của Di mẫu mà Đức Phật đã đồng ý cho người nữ xuất gia.
Ngược lại dòng thời gian chúng ta tưởng tượng, một đoàn người toàn phụ nữ khuê các, cành vàng lá ngọc, đã chẳng ngại khó khăn gian khổ, vượt qua chặng đường đầy cát bụi chông gai với hình thức đầu trần, chân đất để thể hiện quyết tâm xuất trần, thật sự là một hình ảnh vô cùng ấn tượng và xúc động lớn lao. Chính nhờ sự quyết tâm đó, lòng thành đó mà Đức Phật đã cho phép người nữ được xuất gia. Việc làm này của Đức Phật thật sự là tiên phong trong lịch sử tôn giáo. Vì thời cổ đại, thân phận của phụ nữ không chỉ nhỏ bé mà còn bị cho là kém phẩm chất, không thích hợp cho việc tu hành, vốn được xem là cao thượng, chỉ dành cho nam giới và tầng lớp trên.
Lòng quyết tâm cầu đạo của Thánh tổ Ni Kiều Đàm Di không chỉ thể hiện qua những biểu hiện bên ngoài mà còn qua việc tuân thủ bát kính pháp. Bởi vì đối với ngài, được xuất gia, tu tập chính pháp là điều rất quan trọng, cần thiết nhất. Không những Đức Phật dạy người nữ, muốn xuất gia làm Tỳ kheo Ni phải tuân hành, tôn trọng, giữ gìn bát kính pháp mà cho dù Đức Phật giao cho thực hành nhiều giới luật hơn nữa, Thánh Tổ Kiều Đàm Di và 500 vị Tỳ kheo Ni cũng chấp nhận, tín thụ phụng hành, vì chúng không cản trở gì đối với sự tu tập, mà chỉ tốt hơn thêm cho hàng Ni giới. Từ khi xuất gia, Trưởng lão Ni Đại Ái Đạo vâng lời Phật dạy, hành trì, tu tập đúng pháp và Tổ cũng đã dạy các Tỳ kheo Ni khác tuân thủ hành trì giới luật, tu hạnh nhu hòa khiêm cung… Nhờ vậy mà ngài mau chóng chứng đắc Thánh quả, trở thành vị lãnh đạo tối cao trong hàng Ni giới, được Đức Phật và chư Tăng kính trọng.
Vào năm 120 tuổi, khi nghe tin ba tháng sau Đức Phật sẽ nhập Niết bàn, Thánh tổ Ni Kiều Đàm Di liền cùng 500 Tỳ kheo Ni đến chỗ Đức Phật đỉnh lễ dưới chân Ngài và bạch: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Chúng con không nỡ nhìn thấy thân vàng của Ngài diệt độ. Cúi xin Ngài cho con cùng 500 Tỳ kheo Ni đã chứng đắc A La Hán được nhập diệt trước”. Đức Phật im lặng nhận lời.
Thánh tổ Ni Kiều Đàm Di cùng 500 Thánh Ni đỉnh lễ Đức Phật, đi nhiễu quanh Phật và Tôn giả A Nan 7 vòng rồi lui về tịnh xá, tập hợp Ni chúng nói rõ ý định nhập Niết bàn. Sau khi dặn dò Ni chúng những điều cần yếu xong, liền hiện 18 thứ thần biến rồi cùng 500 Thánh Ni trở về hương thất nhập Đại định Niết bàn. Đức Phật biết Di mẫu đã nhập diệt, liền bảo Tôn giả A Nan đến thành Quảng Nghiêm gặp đại tướng Gia Thâu Đề sắp đặt sàn tòa để Như Lai được trọn vẹn ân tình lần cuối với Di mẫu. Thế rồi, đích thân Đức Phật khênh một bên kim quang của Di mẫu, Tôn giả Nan-đà, A Nan và La-hầu-la mỗi vị khênh một bên, bay lên hư không đến ngoại thành, dùng gỗ chiên đàn chất lên thân Thánh Tổ Kiều Đàm Di, Đức Phật chủ trì lễ trà tỳ. Sau đó, đại tướng Gia Thâu Đề, gom lấy xá lợi của Thánh Tổ Kiều Đàm Di và 500 Thánh Ni phân bố khắp nơi để xây tháp phụng thờ.
3. Khơi nguồn Ni đoàn – Ni giới và hạnh tuệ của Tổ cho hàng Ni giới
Thánh Tổ Kiều Đàm Di sau khi xuất gia tu học, lãnh đạo Ni đoàn phát triển trong giáo pháp của đức Như Lai, Tổ hết sức kính cẩn thực hành theo lời Phật dạy. Đối với mọi người, Tổ không còn nghĩ rằng mình là hoàng hậu của nước Ca-tỳ-la-vệ, và cũng không ỷ thế là Di mẫu của Đức Phật. Tổ luôn khiêm cung, tinh tiến, nhiệt tình với mọi công việc. Thánh Tổ Kiều Đàm Di vừa góp phần giáo hóa ni chúng, đưa ngành giáo dục cho Ni đoàn phát triển, tuân hành bát kính pháp, tinh tiến tu học trong pháp và luật của Phật dạy. Ngài rất siêng năng vận động Ni chúng vừa tu vừa học vừa làm công tác từ thiện đối với dân nghèo. Với người ốm đau, bệnh tật hoặc các nạn nhân bị thiên tai, bão lũ, Tổ vui vẻ đến thăm hỏi, cứu trợ. Đồng thời Tổ hay khuyên nhủ thanh thiếu niên thường xuyên đi tham dự các pháp hội để học Phật pháp, động viên mọi người phát tâm quy y Tam bảo, thụ trì năm giới…để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhờ sự khuyên dạy của Tổ mà nhiều gia đình biết quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng… có được cuộc sống hạnh phúc, an vui, thành đạt.
Hạnh tuệ của Tổ thật vô cùng vĩ đại, ngài luôn thể hiện đức tính từ bi, bao dung, nhẫn nhục, tiếp độ làm đầu. Dù được Đức Phật giao lãnh đạo Ni đoàn, Tổ cũng không có tâm kiêu ngạo, khinh mạn. Đối với những vị phát tâm muốn xuất gia, Tổ đều đưa đến đỉnh lễ Đức Phật và chư trưởng lão Tăng – Ni trong Tăng đoàn của Phật để xin xuất gia, thụ giới tu hành, có rất nhiều vị đạt được quả vị giác ngộ giải thoát. Đồng thời chính Tổ cũng đã thấu triệt được giáo pháp của Phật dạy, chứng đắc quả vị A La Hán, khi Tổ nhập niết bàn, Đức Phật đã đứng trước hội chúng tán thán: “Này chư Tỳ kheo! Các ông đừng nên xem thường Tỳ kheo Ni Đại Ái Đạo là người Nữ. Tuy là thân Nữ nhưng lại có đức tính trượng phu, là người có đức hạnh cao cả, xứng đáng làm gương cho Ni đoàn mai sau, nhất là tấm gương tôn trọng, giữ gìn bát kính pháp”.
4. Ni giới hậu lai tiếp tục phát huy gương Thánh tổ
Nhờ vào kinh nghiệm và tài năng tổ chức khéo léo của Thánh tổ Kiều Đàm Di nên Ni đoàn phát triển rất nhanh chóng và lớn mạnh thời Phật còn tại thế. Thánh tổ Kiều Đàm Di xuất gia tu hành khi chứng đắc Thánh quả A La Hán, ngài nói kệ rằng:
“Liễu tri mọi đau khổ, Gột sạch nhân khát ái,
Con đường Thánh tám ngành, Đoạn diệt ta chứng ngộ,
Sinh tử đã đoạn tận, Nay không còn tái sinh.”
Trong các pháp học và pháp hành, Thánh Tổ Kiều Đàm Di đều tinh chuyên, được Đức Phật ấn chứng là bậc kinh nghiệm đệ nhất. Hơn thế nữa, tại Pháp hội Linh Sơn, Đức Thế Tôn đã ân cần thụ ký cho ngài tương lai sẽ thành tựu Phật quả, hiệu là “Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Như Lai”. Thánh Tổ Kiều Đàm Di! Với hành trạng thoát tục siêu phàm của Ngài. Tuy thể chất nữ nhân nhưng chí xuất trần Thượng sĩ. Người là tấm gương, là niềm tin, động lực cho hàng Ni giới hậu lai tiếp tục noi theo, phát huy gương sáng của Ngài để vững bước trên lộ trình tu tập giải thoát, giác ngộ, tự lợi, lợi tha. Trong suốt cuộc đời tu hành, hoằng pháp của ngài Thánh Tổ Kiều Đàm Di Pajāpatī luôn thể hiện đúng vai trò là một bậc Ni trưởng mô phạm, là kết tinh của phạm hạnh và đạo đức. Thánh Tổ Kiều Đàm Di đắc quả Arahatta (A La Hán) được Tăng đoàn thời Đức Phật phong bằng những danh hiệu cao quí như:“Thánh Ni hay Đại Thánh Ni Phật giáo”. Đức Phật đã tán thán Di mẫu Pajāpatī rằng:“Di mẫu không những là một người mẹ vĩ đại của Như Lai (đức Phật), mà còn là một vị Thánh ni có nhiều thần thông lực, và là người dẫn đường cho Ni giới ngày nay và mãi đến ngàn sau. Ngài luôn chăm sóc Ni giới bằng tâm bao dung, quảng đại, có kinh nghiệm bậc nhất trong việc lãnh đạo Ni đoàn”.
Từ sự tu tập chứng đắc của Thánh Tổ Kiều Đàm Di ngài đã nói nhiều bài kệ mang triết lý rất ấn tượng, sâu sắc như: “Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thể Ngài được tăng trưởng từ những giọt sữa của con, nhờ những giọt sữa nầy mà Ngài đã hết khát trong một lúc, còn tâm con được lớn mạnh từ dòng sữa Chính Pháp của Ngài, nhờ dòng sữa nầy mà con vĩnh viễn chấm dứt mọi thèm khát.” hoặc “Các con ơi! Mẹ nhàm chán xác thân nầy, xác thân nầy như là chỗ ở của rắn độc, chỗ ngụ của bệnh tật, ngôi nhà của khổ, hành xứ của già và chết, đầy rẫy những bụi phiền, yếu đuối phải dựa vào người khác, chính vì vậy, Mẹ mới mong Niết bàn. Các con ơi! Hãy hiểu cho Mẹ”. Và rồi ngài nói: “Các con ơi! Khi sầu muộn có nghĩa là bị rơi vào cạm bẫy của ác ma, như vậy thật không nên, các pháp hữu vi là vô thường, mỗi con người cuối cùng rồi cũng phải biệt ly, các con chớ có sầu muộn làm gì”.
Ngài bạch với Đức Phật: “Mắt của chúng con không bao giờ biết no đủ khi ngắm nhìn Ngài, tai của chúng con không bao giờ biết no đủ với kim ngôn của Ngài, tâm của chúng con duy nhất được no đủ với vị pháp của Ngài”. “Kính bạch bậc Cao cả của muôn loài, khi Ngài tuyên thuyết Chính pháp để diệt trừ phiền não cho hội chúng, những người nào được diện kiến Ngài, những người ấy gọi là người có phúc. Kính bạch Đức Thế Tôn, những người nào đỉnh lễ dưới chân Ngài, những người ấy gọi là người có phúc”.
Nhờ ân đức, đạo hạnh sâu dầy của Thánh Tổ Kiều Đàm Di và đoàn người của Tổ được thụ đại giới, trở thành các vị Tỳ kheo Ni đầu tiên của giáo đoàn Phật. Với sự kiện này, Đức Phật được xem là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể xuất gia cho Nữ giới với đầy đủ giới luật. Kể từ đó, đệ tử của Phật gồm có bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Cư sĩ nam và Cư sĩ nữ. Thánh Tổ Kiều Đàm Di đã được Đức Phật chỉ định làm Ni trưởng để lãnh đạo mọi việc thuộc Ni đoàn thời Đức Phật. Trưởng lão Xá Lợi Phất được Phật ủy thác cho trách nhiệm hướng dẫn Ni đoàn về những sinh hoạt căn bản buổi đầu khi mới thành lập Ni đoàn cho Ni giới.
Với trách nhiệm lãnh đạo tài hoa, xuất sắc của Tổ, ngài đã hoạch định về cách giáo dục cho Ni giới, vận động các vị thí chủ giúp đỡ để xây cất các trung tâm tu học cho Ni đoàn. Uy tín của Tổ rất lớn, cho nên chẳng bao lâu, các Ni viện đã lần lượt được xây dựng, kiến thiết, tạo lập rất nhanh tại các nơi như: Tỳ Xá Ly, Ca Tỳ La Vệ, Xá Vệ thành v.v… Thánh Tổ Kiều Đàm Di đã dìu dắt hàng ngàn ni chúng tu học theo nếp sống nghiêm túc, hành trì giới luật, tinh cần, đạo hạnh rất tốt khiến cho rất đông chư Ni đã thành công trong sự tu học, chứng đắc các quả vị từ: Tu Đà Hoàn đến A La Hán… được Đức Phật và chư Tăng rất hoan hỷ nhiều lần khen ngợi.
5. Kết luận
Thánh Tổ Kiều Đàm Di là người Nữ đầu tiên xuất gia hành Thánh đạo, thành lập Ni đoàn. Dưới sự lãnh đạo của Đức Phật và sự trợ duyên của chư tăng, nhờ trí tuệ và sự khéo léo của Thánh tổ Kiều Đàm Di mà Ni đoàn phát triển nhanh chóng, lớn mạnh. Nhiều Tỳ kheo Ni đã chứng đắc quả vị A La Hán, có uy tín trong quần chúng, được dân chúng ca ngợi, ngưỡng mộ. Lễ tưởng niệm Thánh tổ Kiều Đàm Di là dịp tri ân bậc Tổ đức dầy công khai sáng Ni đoàn và là dịp để các thế hệ Ni giới thể hiện sự tri ân, báo ân bằng các Phật sự và công đức tu hành. Nói đến Thánh tổ Kiều Đàm Di (Mahàprajàpatì Gautamì) thì không người con gái của Đức Phật nào không biết. Ngài là người Nữ đầu tiên phát nguyện xuất gia, đã vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, cầu xin Đức Phật để được xuất gia tu hành, đứng vào hàng đệ tử của Phật. Cho đến khi nhập diệt, Thánh tổ Kiều Đàm Di đã dành trọn thời gian còn lại của mình để tu tập, xây dựng Ni đoàn trở thành một nơi nương tựa cho hậu thế.
Lịch sử Phật giáo xưa nay luôn đồng hành cùng dân tộc, những trang sử Ni giới cũng không tách rời lịch sử đất nước, từ thời Hai Bà Trưng đã đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, hình ảnh những vị nữ tướng đã hưởng ứng cùng dẹp giặc, thắng trận xong đã bỏ tất cả vinh hoa phú quý nương vào thiền môn, sống đời phạm hạnh như: công chúa Bát Nàn, Thiều Hoa, Vĩnh Huy, Phương Dung v.v… Không những thế trải qua các triều đại như: Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã xuất hiện rất nhiều những vị trưởng lão Ni nghiên cứu Phật pháp uyên thâm, nghiêm trì giới luật, tu hành đắc đạo được môn đồ tứ chúng rất kính mộ.
Ngoài ra còn rất nhiều các bậc Ni lưu ẩn mình tu hành trong những chốn am tranh cùng cốc, tài liệu lưu lại của các ngài tản mác sâu rộng trong nhân gian, vẫn có sự truyền thừa, xuất gia hành đạo qua từng thế kỷ. Nối tiếp truyền thống xuất gia tu học hành đạo của chư Trưởng lão Ni tiền bối, chư Ni thời cận đại đã không ngừng thúc liễm thân tâm trau dồi tam vô lậu học hoằng pháp độ nhân. Để phát huy gương sáng của Thánh Tổ Kiều Đàm Di cùng chư Tôn đức Ni tiền bối hữu công Phật giáo Việt Nam hàng Ni chúng hậu học cần phải làm tròn bổn phận người xuất gia tu hành tinh tiến, giữ gìn giới luật trang nghiêm, công dân tốt, có ích với Tổ quốc, đối với Phật giáo thì không ngừng tu hành, hoằng pháp, lợi sinh, kiến tạo già lam, tổ chức các khóa tu, dấn thân vì đạo theo phương châm: “Phụng sự chúng sinh là thiết thực cúng dàng chư Phật” và “Đạo pháp – Dân tộc –Chủ nghĩa xã hội”. Hoặc như Bác Hồ đã từng nói: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”.
Việc tổ chức đại lễ tưởng niệm Thánh Tổ Kiều Đàm Di là do cố Ni trưởng Như Thanh, vị lãnh đạo tối cao của Ni bộ Nam Việt khởi xướng rồi tiếp theo sau này do Phân ban Ni giới trung ương và các tỉnh thành trong cả nước, xây dựng ngày này thành ngày truyền thống chung cho Ni giới Việt Nam. Theo truyền thống, đây là Đại lễ được tổ chức luân phiên hằng năm vào ngày mùng 05 – 06 tháng 03 âm lịch hằng năm, trải qua 09 tỉnh đã đăng cai tổ chức Đại lễ tưởng niệm Thánh Tổ Kiều Đàm Di và chư Tôn đức Ni tiền bối hữu công Phật giáo Việt Nam. Năm nay, hội đủ duyên lành, Phân Ban Ni giới Phật giáo thành phố Hà Nội nhận Cờ Luân lưu từ Phân Ban Ni giới Phật giáo tỉnh Cần Thơ năm 2024 (Giáp Thìn), nhận được ân đức đăng cai tổ chức vào ngày 05 – 06 tháng 03 năm Ất Tỵ (tức 02 – 03/04/2025) tại Tổ đình Tây Thiên Trung Hậu, thành phố Hà Nội. Với sự chứng minh, tham dự đông đủ của chư Tôn đức Trưởng lão trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phân ban Ni giới Trung ương, Phân Ban Ni giới Phật giáo các tỉnh thành trong cả nước, cùng đại diện Chính quyền, Mặt trận các cấp.
Đại lễ được tiến hành với những nghi thức trang nghiêm của Phật giáo, trong đó có lễ dâng hoa cúng dàng, lễ tưởng niệm tuyên dương công đức của Thánh Tổ Kiều Đàm Di, lễ cúng Phật – Tổ. Tọa đàm, trao đổi, thảo luận về các vấn đề của Ni giới, Nữ Phật tử, phụ nữ, xã hội,… mà Ni giới Phật giáo đang quan tâm. Truyền thống văn hóa là phải được truyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Xây dựng được ngày truyền thống tức là chúng ta xây dựng được mối dây liên kết, kết nối các thế hệ Ni chúng lại với nhau, tức chúng ta sẽ tạo nên phương tiện để truyền thừa những giá trị văn hóa mà các bậc Ni trưởng, Ni lưu tiền bối đã dầy công xây dựng. Đồng thời ý nghĩa của Đại lễ này nhằm nhắc nhở chư Ni (Con gái của Đức Phật) luôn luôn sống, thực hành theo Giáo pháp của Đức Phật của Tổ cũng như tu tập theo Hạnh tuệ của Thánh Tổ Kiều Đàm Di. Trong khuôn khổ hoạt động của Đại lễ tưởng niệm Thánh Tổ Kiều Đàm Di và chư Tôn đức Ni tiền bối hữu công Phật giáo Việt Nam, tại thành phố Hà Nội có nhiều nội dung đóng góp của chư Tôn đức Ni thành phố Hà Nội vào sự phát triển Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội, Phân Ban Ni giới trung ương, Phân Ban Ni giới các tỉnh, thành trên cả nước. Góp phần xây dựng ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh trong lòng nhân thế và xây dựng đất nước văn minh giàu đẹp.
NS.TS. Thích Đồng Hòa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thiền Uyển tập anh. Nxb. Hồng Đức. 2014
2. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận. Nxb. Phương Đông. 2012
3. Nhiều tác giả, Ni giới Phật giáo Việt Nam: Truyền thống và hiện đại. Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 2016
4. Nguyễn Hồng Dương, Ni giới và tổ chức Ni giới trong mạng mạch Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 3/2021.
5. Nhiều tác giả, Ni giới Thành phố Hồ Chí Minh: Tiềm năng – Hội nhập – Phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng Hợp. 2020
6. Ban Giáo dục Tăng ni Trung ương, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Giáo dục Phật giáo – Định hướng và Phát triển. Nxb. Tôn giáo Hà Nội. 2012
7. Đoàn Trung Còn, Từ điển Phật học. Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 2011.