Mở đầu
Tình trạng ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay trên toàn thế giới. Công nghiệp phát triển kéo theo hàng loạt nhà máy, phân xưởng ra đời để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Theo đó, các chất thải nguy hại từ các nhà máy, cơ sở chưa qua xử lý vô hình trung làm tình trạng ô nhiễm ngày càng thêm trầm trọng. Đây là vấn nạn cần được giải quyết không chỉ riêng tại Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Ở Việt Nam hiện nay, hai thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được cho là có mức ô nhiễm không khí rất cao so với nhiều thành phố khác trên thế giới. Trước những hiểm họa và nguy cơ như vậy, Phật giáo nói chung và Ni giới Phật giáo Hà Nội đang nỗ lực không ngừng để vận động nhân dân, Phật tử và phát huy nội lực từ trong chính cộng đồng của mình, để cùng nhau bảo vệ môi sinh, góp phần xây dựng xã hội hài hòa với tự nhiên và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho muôn loài.
1. Quan niệm của Phật giáo về môi trường
Phật giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung từ khi ra đời cho đến nay đều hướng tới những vấn đề cơ bản nhất là vấn đề nhân sinh quan và thế giới quan. Đối với Phật giáo, con người là trung tâm của vũ trụ, nhưng con người phải sống hài hòa với thiên nhiên, vì quan hệ giữa con người và thiên nhiên là quan hệ Duyên sinh. Cho nên vấn đề bảo vệ môi trường đã được Đức Phật và tăng đoàn nói đến và thực hiện từ hơn 2.500 năm trước. Điều đó được thể hiện qua giáo lý Phật giáo (từ Ngũ giới, Thập thiện, đến Duyên khởi, Duy thức, Nhân quả, Bát chính đạo, Tứ vô lượng,…) luôn hướng con người đến lối sống gắn bó, hài hòa, thân thiện với thiên nhiên; biết tôn trọng, trân quý thiên nhiên, bởi con người và thiên nhiên có mối quan hệ khăng khít, bình đẳng, tác động tương hỗ nhau. Đức Phật khuyên các Tỳ kheo trong mùa mưa không nên đi ra ngoài vì sợ giẫm đạp trên cỏ cây hoặc các loài côn trùng, không đổ thức ăn dư thừa trên cỏ xanh và trong nước có côn trùng, sợ làm hại cỏ và côn trùng1.
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài rất coi trọng lối sống và tu tập hòa nhập với thiên nhiên, Ngài và các đệ tử xem rừng núi như là một môi trường tu tập lý tưởng. Những nơi lan nhã giúp các đệ tử kiểm soát được thân tâm, chế ngự được tham ái, ưu bi, đoạn tận được các lậu hoặc chứng quả giải thoát giác ngộ.
Trong Kinh Tăng Chi, Đức Phật dạy: “Vị ấy, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến một chỗ trống trải sàng tọa, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe núi, hang núi, bãi tha ma, cao nguyên, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham ở đời, an trú với tâm lý tham chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy với tâm định tĩnh, trong sáng, không cấu uế, các phiền não được đoạn trừ, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động, hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc”2.
Rừng, núi chính là nơi trong lành, giúp cho người tu sĩ giữ giới thanh tịnh, tinh tấn trong đời sống phạm hạnh. Đức Phật dạy: “Thật là vừa đủ để vị Tỳ kheo sống ở trong rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”3.
Trong kinh điển, Đức Phật cũng thường lấy các ví dụ về môi trường tự nhiên để nói lên chân lý của Phật giáo và cũng là chân lý của quy luật tự nhiên. Ngài cho rằng, sự vận hành của quy luật tự nhiên bị phá vỡ chẳng khác gì một việc làm “vô minh”, dẫn tới sự xáo trộn tự nhiên sẽ ảnh hưởng đến đời sống con người.
“Ví như này các Tỳ kheo, một hồ nước đã được nhiều năm, có người đến bịt tất cả lỗ nước chảy vào, mở ra, tất cả lỗ nước chảy ra, và trời lại không mưa đều đặn”4.
Phật giáo đặc biệt coi trọng môi trường sinh thái và xem đó như là một nơi không thể thiếu để con người, xã hội tồn tại. Đồng thời, Phật giáo cũng khẳng định cần tôn trọng sự sống của các loài trong môi trường tự nhiên, tôn trọng quy luật tự nhiên. Đặc biệt với Phật giáo, hài hòa với tự nhiên, sống trong tự nhiên còn tạo cho chính người tu sĩ môi trường tu tập lý tưởng, kiềm chế được Tham-Sân-Si, đạt tới chân lý giác ngộ.
Đến nay, các tổ chức Phật giáo trên thế giới đã có nhiều chương trình hoạt động thể hiện tinh thần của Đức Phật, góp phần thiết thực vào hoạt động bảo vệ môi trường như phong trào bảo vệ tuyết trên cao nguyên Tây Tạng của Phật giáo Tây Tạng, phong trào sinh thái bảo tồn các khu rừng, lưu vực sông, động vật hoang dã của Phật giáo Thái Lan…v.v.
Tại Việt Nam, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có nhiều chương trình, hoạt động thiết thực vào bảo vệ môi trường. Đáng chú ý, vào tháng 12 năm 2015, lần đầu tiên 40 tổ chức tôn giáo có 14 tôn giáo tại Việt Nam, trong đó có Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đã cùng ký chương trình phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài nguyên Môi trường tham gia vào bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu bằng những cam kết hành động, cụ thể như: Giáo dục bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ được đưa vào sinh hoạt của các cộng đồng tôn giáo. Các tôn giáo tích cực tham gia có hiệu quả vào các chương trình hành động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài nguyên Môi trường và cơ quan chức năng khác ở các cấp để vận động thực hiện và giám sát việc thực hiện bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Khuyến khích các hoạt động bác ái, từ thiện, giữ gìn và thân thiện với môi trường của Tu sĩ, Phật tử và người dân; kịp thời giúp đỡ, hỗ trợ, chia sẻ với những người nghèo khó, người gặp khó khăn tại cộng đồng dân cư khi gặp phải thiên tai, bão, lũ.
Thực hiện tinh thần của Đức Phật, chương trình hành động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đức Pháp chủ Phật giáo Việt Nam nên Giáo hội đã đưa nội dung bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu vào Hiến chương Giáo hội và chương trình hoạt động hàng năm. Tổ chức những khóa bồi dưỡng giáo lý, giới luật của Phật giáo để triển khai tuyên truyền, vận động các tu sĩ, các Phật tử nâng cao ý thức, hành động bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Phấn đấu đến hết năm 2025 có 100% các chư Tôn đức, Tăng ni và Phật tử đều biết đến Chương trình.
Trên hai nghìn năm Phật giáo đồng hành cùng dân tộc, ni giới Phật giáo giữ một vai trò quan trọng và đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Đạo Phật trong đó có các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Ni giới Phật giáo Hà Nội với bảo vệ môi trường
2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở thành phố Hà Nội hiện nay
Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của đất nước Thủ đô Hà Nội cũng không ngừng phát triển nhiều khu công nghiệp, nhiều công trình xây dựng được hình thành, tạo nên một mối đe dọa lớn đối với môi trường. Các cấp chính quyền đã chi những khoản kinh phí khổng lồ để khắc phục tình trạng ô nhiễm. Tuy nhiên theo như kết quả đo được thì tình hình ô nhiễm ngày càng gia tăng, có chiều hướng ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Hiện nay tổng dân số Hà Nội khoảng hơn 8 triệu người. Mật độ dân số của thành phố Hà Nội là 2.398 người/km2, cao gấp 8,2 lần so với mật độ dân số của cả nước5 Sự gia tăng dân số đã tạo áp lực ngày càng lớn về các hạ tầng giao thông, kỹ thuật thành phố cũng như tác động tiêu cực đến môi trường sống tại Hà Nội. Cụ thể được biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ô nhiễm môi trường do tăng lượng chất thải sinh hoạt do hằng ngày trung bình có khoảng 7.000 tấn rác thải. Tuy nhiên, việc gom rác ở Hà Nội chưa đạt hiệu quả triệt để, vẫn còn khoảng 15% lượng rác thải không được thu gom, xử lý mà vứt tại các kênh, rạch hay các khu đất trống trong địa bàn Thành phố. Lượng rác thải này đủ để gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng, gây mất mỹ quan cho quá trình đô thị hóa.
Thứ hai, ô nhiễm môi trường do lượng nước thải sinh hoạt, Hà Nội nói riêng và các tỉnh thành ở nước ta nói chung, hầu hết nước thải sinh hoạt đều chưa được xử lý mà đổ thẳng ra các sông hồ trong đô thị. Tổng lượng nước thải hằng ngày của thành phố Hà Nội vào khoảng 320.000m3 trong đó có tới 1/3 là nước thải công nghiệp. Trên thực tế, đã có những con sông ở Hà Nội đã trở thành dòng sông chết do bị ô nhiễm quá nghiêm trọng, như sông Tô Lịch, Kim Ngưu, sông Nhuệ,… ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của những người dân khu vực đó.
Thứ ba, ô nhiễm môi trường không khí: Hà Nội vẫn luôn trong top những thành phố có độ ô nhiễm môi trường không khí cao nhất thế giới. Chất lượng không khí của Hà Nội “không có dấu hiệu được cải thiện”. Yếu tố gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường không khí tại Hà Nội chủ yếu do ô nhiễm bụi, nồng độ bụi lơ lửng trong không trung, tổng số TSP, bụi PM10 và bụi mịn (PM2,5 PM1).
Thứ tư, ô nhiễm tiếng ồn, do Hà Nội là một đô thị lớn, mức độ đô thị hóa cao, mật độ xe cộ tham gia giao thông luôn ở mức dày đặc, tiếng ồn đến từ còi xe, nẹt bô… đã trở thành nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường, bởi tiếng ồn gây nhiều khó chịu đến cuộc sống của người dân. Theo kết quả nghiên cứu và đánh giá của Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường tại 12 đường và nút giao thông chính tại các đô thị như Hà Nội, tiếng ồn trung bình vào ban ngày là 77,8 đến 78,1 dBA (mức âm quy định của tiếng ồn), vượt tiêu chuẩn cho phép từ 7,8 đến 8,1 dBA. Trong khi đó, việc chịu đựng lâu tiếng ồn có cường độ 50 deciben (dB) có thể khiến con người giảm hiệu suất làm việc, nhất là lao động trí óc; tiếng ồn 70 dB có thể làm tăng nhịp thở, nhịp tim, huyết áp, ảnh hưởng đến dạ dày và giảm hứng thú lao động; tiếng ồn 90dB sẽ gây mệt mỏi, mất ngủ, tổn thương chức năng thính giác, mất thăng bằng cơ thể và suy nhược thần kinh.
Thứ năm, ô nhiễm môi trường đất ở Hà Nội ngày càng gia tăng nguyên nhân là do đất chịu tác động của các chất thải từ hoạt động công nghiệp và đô thị hóa, xây dựng, sinh hoạt và các bãi chôn lấp rác thải; các chất độc hóa học tồn lưu; nước thải ngấm vào đất, gây ô nhiễm môi trường đất và làm thay đổi hàm lượng các chất hóa học trong đất. Ngoài ra, một số khu vực là nơi chứa đựng và lưu trữ các chất thải của quá trình sản xuất, hay chất thải rắn sinh hoạt tiềm tàng nhiều nguy cơ gia tăng ô nhiễm môi trường đất. Tại khu vực đô thị, chỉ có khoảng 15% số bãi chôn lấp chất thải rắn không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh. Nước rỉ từ các hầm ủ, bãi chôn lấp không được xử lý theo quy định sẽ ngấm xuống đất gây ô nhiễm môi trường đất và nước ngầm.
2.2. Hành động bảo vệ môi trường của Ni giới Phật giáo ở thành phố Hà Nội hiện nay
Trên cơ sở triết lý Duyên khởi, Vô ngã, Nghiệp báo và Nhân quả, Phật giáo đã xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức như phát triển tâm Từ bi, giữ Ngũ giới, hành Thập thiện… rất có ý nghĩa trong ứng xử “thiện” với thế giới tự nhiên, với môi trường. Các chuẩn mực tu học và thực hành của Phật giáo đối với môi trường tự nhiên rất gần với các chuẩn mực đạo đức môi trường và đáp ứng yêu cầu xây dựng ý thức tự giác về bảo vệ môi trường hiện nay. Trên tinh thần đó Ni giới thành phố Hà Nội không ngừng nâng cao trình độ Phật pháp, trước hết phải luôn thấm nhuần tinh thần Từ bi của Đức Phật, hiểu sâu nhân quả, từ đó mới có thể giảng giải cho các Phật tử nhận thức rõ giáo lý mà Đức Phật đã dạy về việc giữ gìn môi trường sinh thái xanh, sạch. Trồng cây, gây rừng không những đem lại bóng mát, thanh lọc không khí, còn bảo tồn trái đất, đem lại nhiều điều lợi lạc cho tất cả mọi người và cũng chính là thực hành công hạnh lợi tha của người con Phật. Những năm gần đây, khi Phật giáo cùng các tôn giáo khác tích cực hưởng ứng chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác bảo vệ môi trường đã dần trở thành nếp sống thường ngày ở các ngôi chùa, thiền viện trên cả nước. Ở Hà Nội các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đã chọn ngày 30/5 hàng năm là “Ngày các tôn giáo trên địa bàn TP. Hà Nội chung tay bảo vệ môi trường”; Kêu gọi tới cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường, ý thức và trách nhiệm tại nơi mình sinh sống để lan tỏa ra cộng đồng. Mỗi năm, 7 tôn giáo sẽ chung tay làm 1 công trình phúc lợi xã hội hướng tới bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Do vậy bên cạnh việc tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của Phật tử một cách thuần túy, các chùa do Ni giới Phật giáo Hà Nội đã chú trọng vào kiến tạo các không gian xanh và thanh tịnh tại nơi thờ tự. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy khi tới dâng hương, vãn cảnh tại các ngôi chùa do Ni giới Hà Nội quản lý tạo ấn tượng với vườn cây cối xanh tươi, hồ nước sạch và không khí trong lành, mát mẻ, trở thành khu văn hóa tâm linh, giúp gắn kết con người với môi trường tự nhiên, theo đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường như chùa Kim Liên, chùa Trầm, chùa Mía,… Cùng với đó trong các ngày lễ hội Phật giáo, các Ni trưởng, Ni sư đã vận động Phật tử tham gia vào phong trào “trồng cây phúc đức” và “trồng cây trí đức”, loại bỏ tục lệ “hái lộc, bẻ lộc” như trước đây. Nhiều ngôi chùa được đầu tư tôn tạo khuôn viên, cảnh quan xanh tạo không khí thiền tịnh, trang nghiêm, giúp nâng cao ý thức của người dân về vệ sinh môi trường, chẳng hạn như chùa Kim Liên nằm tại địa phận phố Từ Hoa, làng Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Từ vị trí chùa nhìn ra Hồ Tây, kết hợp với quang cảnh linh thiêng chốn cửa thiền đồng thời ngôi chùa còn được bao quanh bởi cây cối xanh tốt khiến ngôi chùa này được mệnh danh là “Bông sen vàng trên mặt nước Hồ Tây”. Hay như chùa Mía cùng với nhân dân cải tạo môi trường trong khu Di tích làng cổ Đường Lâm, góp phần tôn vinh vẻ đẹp, giá trị các di tích, thu hút đông đảo du khách đến tham quan trải nghiệm; cải tạo các ao, hồ, thay nguồn nước mới; một số hồ có thể thả hoa sen như cổng làng Đông Sàng, Cam Thịnh, ao cá Bác Hồ; trồng một số cây xanh quanh hồ tạo bóng mát, duy trì các thùng rác nơi công cộng.
Bên cạnh đó, các chư Ni cũng kêu gọi xây dựng lối sống thân thiện với môi trường ngay trong cộng đồng dân cư như: “sạch và đẹp từ bàn thờ, trong nhà, ra ngoài sân, đến đường đi và cùng khắp đất nước.” Thực hiện tiết kiệm nguồn nước, trồng cây xanh, tham gia quét dọn vệ sinh tại nơi cư trú và các khu dân cư. Vấn đề bảo vệ môi trường đã được đưa vào bài giảng trong các khóa tu cho Phật tử với nhiều nội dung phong phú, đặc biệt là với đối tượng trẻ em nhằm hướng các em có ý thức bảo vệ môi trường từ sớm. Giáo hội các cấp đã biên tập những kiến thức về bảo vệ môi trường theo quan điểm Phật giáo, để từ đó có những ứng dụng, thực hành ngay trong cuộc sống thường ngày và khuyến khích mọi người cùng chung tay hành động vì môi trường.
Để tích cực hưởng ứng phong trào do Bộ Tài Nguyên và Môi trường đề ra về “chống rác thải nhựa”, thông qua đó giảm thiểu ô nhiễm môi trường, các chùa ni tại Hà Nội kêu gọi người dân dùng túi giấy, túi vải sử dụng nhiều lần thay vì sử dụng túi nilon; thay thế các sản phẩm nhựa khó phân hủy, sử dụng một lần như: ống hút, chai nước suối, bát, đĩa, cốc, thìa… bằng việc sử dụng cốc sứ, cốc hoặc bình thủy tinh khi tổ chức hội họp và tiếp khách. Chẳng hạn chư Ni các quận huyện đã hướng dẫn Phật tử đến chùa chung tay bảo vệ môi trường bằng cách phân loại rác thải hữu cơ và vô cơ tại nguồn, hạn chế tối đa việc sử dụng rác thải nhựa, không xả rác ra đường và kênh rạch, để giữ gìn thành phố sạch và giảm ngập nước, giải thích rõ ràng cho Phật tử những mặt hạn chế, tiêu cực của việc đốt vàng mã làm mất mỹ quan đô thị nhằm bảo vệ môi trường, thể hiện nếp sống văn minh nơi công cộng, bài trừ mê tín dị đoan. Bằng hành động cụ thể mỗi ngôi chùa ở đây đã ký cam kết hưởng ứng tham gia các phong trào giữ gìn vệ sinh môi trường, tổng vệ sinh; tăng cường phân loại để chất thải nhựa có thể sử dụng, tái chế; tham gia phân loại rác tại nguồn, bỏ rác đúng giờ và đúng nơi quy định; thực hiện vệ sinh môi trường chung 2 lần/tháng; không xả rác ra đường, hố ga; hạn chế và tiến tới không sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần trong các dịp lễ trọng; sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường như chùa Trăm Gian huyện Chương Mỹ; hay sự phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường cùng các tổ chức tôn giáo Thành phố Hà Nội tổ chức lễ ra quân bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hưởng ứng “Tháng hành động vì môi trường” năm 2022.
Như vậy có thể thấy, không chỉ là hành động cụ thể hằng ngày mà sâu xa hơn và ở tầm mức cao hơn đó là Ni giới Thành phố Hà Nội cần xây dựng một nền tảng đạo đức sinh thái dựa trên hệ triết lý Phật giáo với các nội dung cốt yếu là tinh thần Từ Bi và diệt trừ Tam Độc “Tham – Sân – Si” từ trong tâm tưởng của mỗi người Phật tử. Dựa trên tinh thần Từ Bi, tôn trọng sự sống của muôn loài, không sát sinh ngay cả những sinh linh bé nhỏ sẽ giúp cho con người coi trọng giới tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, góp phần tạo dựng một môi trường sinh thái cân bằng. Ni giới thành phố Hà Nội cũng là thành phần tích cực tham gia vào các phong trào bảo vệ môi trường do các tổ chức chính trị – xã hội, chính quyền các cấp phát động, tạo ra sự liên kết và chung tay góp sức giữa Phật giáo và các đoàn thể trong công tác giữ gìn môi trường tự nhiên ở Việt Nam. Bảo vệ môi trường là thể hiện tinh thần nhập thế, ý thức trách nhiệm của cộng đồng Phật giáo nói chung và ni giới Phật giáo nói riêng với xã hội hiện nay. Đó chính là tinh thần mà Đức Phật đã dạy trong các kinh điển mà cụ thể nhất là trong kinh A-hàm, phẩm Kinh Lâm.
3. Một số giải pháp cần phát huy vai trò của Ni giới Phật giáo Hà Nội trong bảo vệ môi trường
Ni giới Thành phố Hà Nội là một bộ phận không tách rời của Giáo hội Phật giáo Thành phố nói riêng và Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung trong việc bảo vệ môi trường. Có thể nói, trong thời gian qua Ni giới cũng đã tích cực phát động phong trào như: trồng cây, bảo vệ môi trường xanh, sạch và nhiều hoạt động khác ở các địa bàn của thành phố. Tuy nhiên, các chương trình còn nhỏ lẻ, chưa đồng nhất, nên cần được cụ thể hóa để Tăng, Ni, Phật tử thực hiện dễ dàng từ sống hợp vệ sinh, không xả rác bừa bãi đến những hành động lớn như tham gia các hoạt động xã hội về bảo vệ môi trường. Việc biên soạn, phát hành các tài liệu liên quan đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với các chùa còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu, gây khó khăn cho việc tuyên truyền đến cộng đồng các Phật tử. Các hoạt động hội thảo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng còn ít. Việc bố trí kinh phí triển khai thực hiện chương trình của các chùa còn quá ít, nhất là cho việc xây dựng các mô hình điểm và hoạt động truyền thông. Do vậy muốn nâng cao hiệu quả thì Phân Ban Ni giới Thành phố Hà Nội và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thành phố Hà Nội cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
Thứ nhất, chư Ni, Phật tử cần tự trau dồi thêm kiến thức, tìm đọc những giáo lý mà Đức Phật dạy về vấn đề bảo vệ môi trường. Chính những lời dạy đó sẽ giúp cho chúng ta thực hiện tốt trong suy nghĩ cũng như sinh hoạt hằng ngày từ đó khuyến khích Phật tử và người dân sống theo lối sống tiết kiệm trong tiêu dùng, hiệu quả sẽ làm giảm khí thải độc hại ra môi trường. Môi trường có cây xanh thoáng mát sẽ cung cấp dưỡng khí oxy trong lành cho cơ thể chúng ta hoạt động và phát triển.
Thứ hai, Phân Ban Ni giới cũng cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa giáo dục truyền thống Phật giáo về bảo vệ môi trường thông qua các buổi thuyết giảng về giáo lý của các chùa Thành phố, khi thuyết giảng cần đề cao những vấn đề về bảo vệ môi trường. Phân Ban Ni giới và Giáo hội nên thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo, tọa đàm về cuộc sống và môi trường để giúp mọi người hiểu thấu đáo hơn về trách nhiệm của mình đối với môi trường sống.
Thứ ba, đề xuất những cơ sở, tự viện cũng như gia đình Phật tử trồng cây xanh trong khu đất mà mình đang sinh sống, tạo cảnh quan cho chùa cũng như môi trường xanh – sạch – đẹp.
Thứ tư, cần tăng cường quan hệ, hợp tác với chính quyền địa phương để tổ chức các cuộc mít tinh, tuyên truyền cũng như hành động về việc bảo vệ môi trường.
Thứ năm, khuyến khích chư Ni và Phật tử trên tinh thần đoàn kết. Bởi vì hoạt động bảo vệ môi trường là một hoạt động cần tính tập thể, tính cộng đồng mới thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường một cách tốt nhất và thường xuyên tham gia vào các hoạt động có ích cho xã hội như việc trồng rừng, vệ sinh đường phố, thu gom rác thải, tái sử dụng những chất nhựa và nilon tại gia đình và cộng đồng.
Thứ sáu, cần phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội để vận động Tăng ni Phật tử bỏ những tập quán, thói quen gây ô nhiễm môi trường, làm tăng biến đổi khí hậu; xây dựng cơ sở tôn giáo xanh, sạch, đẹp; tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của Phật giáo; hỗ trợ các tôn giáo bạn xây dựng và nhân rộng những mô hình điểm cộng đồng Phật giáo và nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của mỗi tôn giáo, nhằm nâng cao ý thức chủ động phòng, tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phối hợp vận động, kêu gọi sự ủng hộ, đóng góp các nguồn lực vật chất và tinh thần của các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp hỗ trợ cho chương trình bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Kết luận
Môi trường sinh thái theo quan niệm của Phật giáo là một trong những yếu tố then chốt, giữ vai trò quan trọng vô cùng đối với đời sống của con người và xã hội. Đối với tu sĩ Phật giáo nói chung và Phật giáo Thành phố Hà Nội nói riêng, bảo vệ môi trường sống hòa nhập với thiên nhiên còn là một trong những cách giúp cho người tu sĩ gạn lọc thân tâm, tu dưỡng phẩm hạnh. Vì thế, giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái được xem là nhiệm vụ thiết yếu của người con Phật. Thiết nghĩ trong thời gian tới, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu, cần được Ni giới cụ thể hóa hơn vào trong các chương trình hành động. Có thể thiết kế các mô hình bảo vệ môi trường hiệu quả, thiết thực hơn. Đồng thời cần có sự liên kết chặt chẽ hơn nữa trong Ni giới cũng như với các tổ chức đoàn thể, chính quyền ở Thành phố đối với việc bảo vệ môi trường. Để phát huy được sức mạnh tổng thể của xã hội, đối với việc xây dựng một môi trường sinh thái hài hòa, một Thành phố hiện đại nhưng tự nhiên không ô nhiễm và đem lại cho cuộc sống an lạc, hạnh phúc cho muôn người.
Ni trưởng Thích Đàm Hà
- Xem Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Ban Giáo dục Tăng ni Trung ương (2012): Hội thảo khoa học Giáo dục Phật giáo định hướng và phát triển, Hà Nội, tr.325.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1996): Kinh Tăng Chi Bộ, Tập II, Số thứ tự 22, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.469-470.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1996): Kinh Tăng Chi Bộ, Tập II, Số thứ tự 22, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.471.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1996): Kinh Tăng Chi Bộ, Tập II, Số thứ tự 22, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.132.
- Theo số liệu của World Population Review, https://worldpopulationreview.com/ countries/vietnam-population
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Thường trực UBTWMTQVN – Bộ Tài nguyên & Môi trường – Các tổ chức tôn giáo: Chương trình phối hợp giữa Ban thường trực Ủy ban Trung ương MTTQVN, Bộ Tài nguyên và Môi trường với các tôn giáo về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu (Giai đoạn 2015-2020), Thành phố Huế, ngày 02 tháng 12 năm 2015.
2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1996): Kinh Tăng Chi Bộ, Tập II, Số thứ tự 22, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương (2012): Hội thảo khoa học Giáo dục Phật giáo định hướng và phát triển, Hà Nội.
4. Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Hội đồng chứng minh (21/5/2016): Thông điệp Phật đản của Đức Pháp chủ GHPGVN gửi Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử nhân Đại lễ Phật đản Phật lịch 2560, Dương lịch 2016, http://www.phattuvietnam.net.
5. Ngô Văn Trân (2013): Phật giáo với bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 9 (123).
6. Hà Thị Xuyên: Phật giáo với sứ mệnh bảo vệ môi trường, Báo Đại đoàn kết, ngày 29/07/2016.


















































