
Sanskrit là ngôn ngữ tối cổ của dân tộc Ấn Độ, được gọi là Classical Sanskrit (Sanskrit cổ điển) hay Sanskrit Veda vì toàn bộ kinh điển Veda đều được biên tập bằng ngôn ngữ này. Vào thế kỷ thứ IV trước Tây lịch, nhà ngôn ngữ học lỗi lạc Pànini hệ thống lại Sashrit cổ điển, tạo ra loại hình Standard Sanskrit (Sanskrit tiêu chuẩn) có tính ưu việt cao. Chỉ trong thời gian ngắn Standard Sanskrit đã phổ biến khắp Ấn Độ, nhanh chóng được giới văn học chấp nhận. Tất cả những văn bản viết bằng Classical Sanskrit đều được thay thế bằng Standard Sanskrit. Phật giáo không sao tránh khỏi ảnh hưởng từ xã hội và chịu sự tác động bởi trào lưu này. Tuy nhiên, Standard Sanskrit được xem là ngôn ngữ dành riêng cho giới quý tộc, Đức Phật không cho phép Tăng chúng sử dụng. Do đó, Phật giáo đã cho ra đời loại ngôn ngữ mới, đó là Buddhist Hybrid Sanskrit hay còn gọi là Sanskrit hỗn chủng. Sự ra đời của Buddhist Hybrid Sanskrit được xem như bước ngoặt quan trọng đối với Phật giáo, bởi nó bắt kịp nhu cầu thời đại và không đi trái lời dạy của Đức Phật. Vậy thì, Buddhist Hybrid Sanskrit ra đời vào thời điểm nào, quá trình hình thành ra sao, con xin chọn đề tài “Lịch sử hình thành Buddhist Hybrid Sanskrit” làm khảo luận nghiên cứu. Bài viết sử dụng phương pháp sử học, tổng hợp và phân tích đánh giá tư liệu để làm sáng tỏ vấn đề.
Đạo Phật có một nền văn học đồ sộ, gồm văn học truyền miệng và văn học thành văn. Vào thời Đức Phật, kinh điển chủ yếu được ghi nhớ bằng ký ức và truyền miệng từ người này sang người khác. Cũng giống như các bộ Veda của Bà-la-môn, với hơn một ngàn bài tụng, được phổ theo kiểu lối thơ kệ dễ đọc dễ nhớ và truyền tụng bằng miệng. Vậy thì, Đức Phật sử dụng ngôn ngữ nào để thuyết pháp? Phật giáo Nam truyền cho rằng, Đức Phật sử dụng ngôn ngữ Pali, vì Pali là ngôn ngữ của Phạm Thiên. Theo kinh Khởi Thế Nhân Bổn, con người có nguồn gốc từ Phạm Thiên, một đứa bé mới sanh chưa nghe qua âm thanh nào có thể nghe và hiểu được tiếng Pali do đây là ngôn ngữ của “Thủy tổ” loài người. Từ đó họ cho rằng, Đức Phật chỉ sử dụng một ngôn ngữ Pali, tất cả các chúng sanh nghe đều có thể hiểu được và cho rằng Đức Phật đang nói tiếng mình. Điều này được ghi lại trong Luận Đại Tỳ Bà Sa quyển 79 như sau:
Phật dùng một tiếng diễn giảng pháp
Tùy loại chúng sanh đều được hiểu
Đều cho Thế Tôn đồng ngôn ngữ
Riêng vì mình giảng nói nghĩ sâu1
Theo bài tụng trên cho rằng một thứ tiếng đó là tiếng Phạn. Nếu người Chí-na đến nghe pháp Đức Phật sẽ vì họ nói tiếng Chí-na, nhưng nếu người Lịch-ca-diếp-phiệt-na, Đạt-thích đà, Mạt-điệp-bà-khư-sa, Đổ-hóa-na-bác-hát-la…, đến nghe pháp họ đều cho Thế Tôn vì mình giảng nói tiếng nước mình, nên sau khi nghe xong tất cả đều hiểu rõ. Nam truyền cho rằng tiếng Magadhi là ngôn ngữ phổ thông của xứ Magadha và đây là ngôn ngữ nền tảng trong sự sáng thành tiếng Pali về sau. Do đó, dựa trên câu chuyện ghi lại trong Cullavagga, có hai Tỳ-kheo xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn có lời nói nhã nhặn, âm điệu ngọt ngào tên là Yamelu và Tekula than phiền với Đức Phật rằng: “Bạch ngài, hiện nay các Tỳ kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy làm hỏng lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch ngài, hãy để cho chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật!”. Niêm luật tức là Vedic Sanskrit (Phạn Vệ Đà), ngôn ngữ chỉ dành riêng cho giới quý tộc sử dụng. Đức Phật vốn chủ trương xóa bỏ sự phân biệt giai cấp, nêu cao quyền bình đẳng giữa con người, do đó quan điểm này không được Thế Tôn chấp nhận. Ngài dạy rằng: “Sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người có đức tin… Ta cho phép học tập lời dạy của Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân.”3 Căn cứ lời dạy trên, Buddhaghosa của Phật giáo Nam truyền giải thích từ “bản thân” chỉ cho pháp được nói ra bởi Đức Thế Tôn, tức ngôn ngữ của xứ Magadha. Đó là nguyên nhân cho đến tận ngày nay, Nam truyền vẫn một mực cho rằng Đức Phật sử dụng tiếng Pali nói pháp. Quan điểm này vô cùng mâu thuẫn, vì Đức Phật đã không đồng ý việc sử dụng một ngôn ngữ cố định, lại dạy các Tỳ-kheo học pháp bằng tiếng Magadha là điều không thể xảy ra. Phật giáo Bắc truyền kịch liệt phản đối quan điểm của Buddhaghosa và đưa ra lý giải, từ “bản thân” vốn chỉ ngôn ngữ địa phương của mỗi cá nhân, thay vì ngôn ngữ cổ Magadha của dòng họ Sakya bấy giờ. Đồng thời, các nhà ngôn ngữ học chỉ ra rằng: “Pali không phải là một loại spoken language- ngôn ngữ, nó là một loại textual language-văn ngữ, được sử dụng ghi chép các Thánh điển của Theraveda”4. Như vậy, Pali không phải là ngôn ngữ nói, đồng thời nó xuất hiện rất trễ về sau, cho nên Đức Phật không thể dùng tiếng Pali nói pháp. Luận Đại Tỳ Bà Sa mô tả, một lần Đức Phật thuyết pháp cho bốn vị chư Thiên nghe, nhưng chỉ hai vị lãnh hội được, còn hai vị không hiểu. Đức Phật dùng tiếng miền Nam Ấn Độ giảng tiếp nhưng chỉ một vị nữa hiểu được, sau cùng ngài dùng tiếng Miệt-lê-xa nói pháp vị sau cùng mới hiểu hết.5 Như vậy, một bài pháp, cùng đối tượng là chư Thiên nhưng Đức Phật phải dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau các vị chư Thiên mới hiểu, huống gì là người phàm ở thế gian. Do đó, điều này mâu thuẫn với quan điểm Đức Phật sử dụng một ngôn ngữ nói pháp.
Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy rằng :“Ở đây, này các Tỳ-kheo, trong nhiều quốc độ, người ta gọi pati (cái dĩa) bằng những chữ pati… patta… vittha… sarava… dharopa… pona… pisila. Như vậy họ biết trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy; như vậy, có người lại làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói: “Chỉ như vậy là sự thật, ngoài ra là hư vọng, như vậy gọi là chấp trước địa phương ngữ,.” Con người thường hay chấp vào ngôn ngữ địa phương từ đó dẫn đến những kiến giải sai lầm, cho nên Đức Phật dạy không được chấp trước địa phương ngữ và đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.
Ngài chủ trương không nên lấy bất kỳ một ngôn ngữ nào làm tiêu chuẩn, nên sử dụng ngôn ngữ nào mà người dân thường sử dụng. Trong suốt 45 năm thuyết pháp, Đức Phật luôn dùng ngôn ngữ địa phương để giáo hóa: “Phật giảng dạy các Thánh đế bằng ngôn ngữ thông dụng của từng địa phương. Với tín đồ ở Vương Xá, ngài nói tiếng nước Ma Kiệt Đà. Với tín đồ Xá Vệ, Ngài nói tiếng Kiều Tát La. Với tín đồ ở Ba La Nại, Ngài nói tiếng nước Ca Thy. Với tín đồ ở Tỳ Xá Ly, Ngài nói tiếng nước Bạt Kỳ. Với tín đồ Kiều Thưởng Di, Ngài nói tiếng nước Bạt Xa6.” Đức Phật đến vùng nào dùng ngôn ngữ của chính địa phương đó, làm cho người dân tưởng là người bản xứ, từ đó có thể dễ dàng cảm hóa họ. Đồng thời, dùng tiếng địa phương thuyết pháp chắc chắn tất cả người nghe đều có thể hiểu được: “Này Ananda, giọng nói của chúng thế nào, giọng nói của Ta cũng như vậy, và với bài pháp thoại, Ta giảng dạy, Ta khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ7.” đây chính là diệu dụng khi Đức Phật dùng tiếng địa phương nói pháp. Qua đó ta có thể khẳng định: “Đức Phật là nhà ngôn ngữ kiệt xuất8!” Ngài không sử dụng, cũng không bắt buộc các Tỳ-kheo phải sử dụng cố định một ngôn ngữ nào. Nhưng điều này cũng chứng tỏ kho tàng văn học truyền miệng của Phật giáo vô cùng phong phú, bởi Ấn Độ cổ xưa bao gồm rất nhiều tiểu quốc nhỏ, mỗi tiểu quốc đều có ngôn ngữ riêng của mình. Như vậy, Phật giáo khích lệ sử dụng ngôn ngữ địa phương để giáo hóa, không chỉ đạt hiệu quả cao trong công cuộc truyền bá chánh pháp, còn để lại kho tàng văn học truyền miệng hết sức đa dạng. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập diệt, văn học truyền miệng không còn đáp ứng được nhu cầu thực tế, do đó cấp thiết phải có sự ra đời của văn học thành văn.
Vào thế kỷ thứ IV trước Tây Lịch, xuất hiện nhà ngôn ngữ học lỗi lạc Pànini. Ông soạn ra cuốn sách gồm 8 chương với 3.965 qui chuẩn, hệ thống lại toàn bộ thanh, ngữ, nghĩa Sansktit gọi là Standard Sanskrit (Sanskrit tiêu chuẩn) dùng để phân biệt với Classical Sanskrit (Sanskrit cổ điển). Chỉ trong thời gian ngắn, Standard Sanskrit nhận được sự hướng ứng của giới văn học và phổ biến rộng rãi khắp Ấn Độ, hình thành trào lưu biên tập lại toàn bộ những văn bản viết bằng Classical Sanskrit trước đây qua Standard Sanskrit. Phật giáo là một thành tố trong xã hội Ấn Độ không sao tránh khỏi tác động mạnh mẽ của trào lưu này, nhưng nếu sử dụng Standard Sanskrit để biên tập kinh điển sẽ đi trái lời dạy của Đức Phật trong Luật tạng.
Trước nhu cầu bức thiết của thời đại, Phật giáo cho ra đời loại hình ngôn ngữ Sanskrit mới, được Franlin Edgerton nhà ngôn ngữ học người Mỹ đặt tên là Buddhist Hybrid Sanskrit: Sanskrit hỗn chủng Phật giáo. Buddhist Hybrid Sanskrit là “tên hiện đại dùng để chỉ một cổ ngữ tại Ấn Độ, được giới Phật giáo sử dụng để biên tập kinh điển. Trong đó đa số là kinh điển Đại thừa (Phật giáo Bắc truyền)9.” Vào hậu bán thế kỷ thứ II trước Tây lịch, văn học Đại thừa bắt đầu phát triển, Buddhist Hybrid Sanskrit ra đời trong thời điểm đó, cho nên 90-95% kinh điển Đại thừa đều được biên tập bằng ngôn ngữ này. Sự xuất hiện của Buddhist Hybrid Sanskrit là bước ngoặt quan trọng trong Phật giáo Đại thừa, bởi đáp ứng được nhu cầu thực tế xã hội mà không đi trái lời Phật dạy. Tuy nhiên, tên gọi Buddhist Hybrid Sanskrit không phải có từ lúc mới hình thành, nó trải qua quá trình hết sức phức tạp. Ban đầu, người ta nhận thấy chỉ có phần thơ kệ được biên tập bằng ngôn ngữ này, khác với ngôn ngữ biên tập trường hàng nên gọi là Sanskrit Gatha (Sanskrit thơ kệ). Về sau, các nhà ngôn ngữ phát hiện ra, loại hình Sanskrit này có pha trộn thêm hai ngôn ngữ của vùng Trung Ấn. Đây là điều dễ hiểu, bởi đệ tử Đức Phật sử dụng địa phương ngữ thuyết pháp, có một số phương ngữ không thể dịch ra nên họ để nguyên ngữ nghĩa từ đó không dịch, do đó đổi tên thành Mixed Sanskrit (Sanskrit pha trộn). Kế tiếp, khi các nhà khảo cổ học khai quật được các bia ký rải rác khắp nơi trên lãnh thổ Ấn Độ, trên bia ký sử dụng Buddhist Hybrid Sanskrit. Họ cho rằng đây là ngôn ngữ được phổ biến và sử dụng rộng rãi ở nhiều nơi, do đó đổi tên thành Popular Sanskrit (Sanskrit phổ biến). Nhưng tên gọi này cũng không thỏa mãn đối với các học giả vì nó vẫn bị pha trộn bởi hai ngôn ngữ Trung Ấn. Cuối cùng, khi nhận ra rằng ngôn ngữ này được Phật giáo sử dụng nhiều nhất, nên họ đổi tên thành Buddhist Sanskrit (Sanskrit Phật giáo), dùng để phân biệt với Classical Sanskrit (Sanskrit bà-la-môn). Tuy nhiên, chưa có ngôn ngữ nào dùng tên của một tôn giáo để đặt tên. Vì vậy, tên gọi của thể loại Sanskrit mới này vẫn là vấn đề tranh luận.
Năm 1953, nhà ngôn ngữ học người Mỹ, Franlin Edgerton đặt tên cho ngôn ngữ này là Buddhist Hybrid Sanskrit (BHS). Ông lý giải cách đặt tên như sau: “Buddhist: do ngôn ngữ này chủ yếu được giới Phật giáo dùng để biên tập các kinh điển, các tác phẩm văn học liên quan đến Phật giáo; Hybrid: nghĩa là hỗn chủng, do ngôn ngữ này có sự pha trộn của hai ngôn ngữ khác; Sanskrit: do ngôn ngữ Sanskrit là gốc và chiếm vị trí chủ đạo.10” Đồng thời, ông cho ra đời tác phẩm Buddisht Hybrid Sanskrit Grammar and Dictionary gồm hai tập, tập một là Văn phạm, tập hai là Từ điển. Ban đầu, tên gọi này không được các học giả chấp nhận, như học giả Sukumar Sen đưa ra phản đối: “Việc chèn từ ‘Hybrid’ có cần thiết hay mong muốn không?11” Ông cho rằng trước khi Buddist Hybrid Sanskrit Grammar and Dictionary ra đời, ngôn ngữ của các bộ kinh Phật như Mahāvastu, Lalitavistara, Divyāvadāna…, đều được biên tập bằng BHS, nên tên gọi Buddhist Sanskrit đều đã được các học giả chấp nhận. Việc chèn từ “Hybrid” hoàn toàn không cần thiết, vì bất cứ một ngôn ngữ nào đều có yếu tố vay mượn. Buddhis Sanskrit mặc dù các từ ngữ của nó không đồng nhất, ngữ pháp không kiểm soát chặt chẽ, bởi đây là ngôn ngữ nói của những người bình dân có thể thay đổi theo thời gian và địa điểm. Tuy nhiên, Franlin Edgerton vẫn một mực đặt tên BHS và viết liên tiếp 10 bài báo phản bác lại. Về sau, 10 bài báo được biên tập thành tác phẩm mang tên Buddhist Hybrid Sanskrit Literature. Sau khi Franlin Edgerton mất, một hội thảo được tổ chức để đánh giá công lao về cuộc đời và sự nghiệp của ông, trong hội thảo 10 bài báo tiếp tục được đưa ra tranh luận. Hội thảo kết thúc cũng là lúc tên gọi Buddhist Hybrid Sanskrit chính thức được công nhận. Qua đó ta thấy, đặt tên cho một ngôn ngữ là cả quá trình phức tạp, bởi BHS không đơn thuần là ngôn ngữ Ấn mà liên quan đến cả hệ thống ngôn ngữ Ấn-Âu.
Trước đây, khi chưa có sự giao lưu tiếp xúc giữa Đông-Tây, không ai biết đến sự tồn tại của ngôn ngữ này. Sau cách mạng công nghiệp bùng nổ tại Pháp, trong quá trình tìm kiếm thị trường và xâm lấn thuộc địa, một quý tộc người Anh là Sir William Jones khi qua Ấn Độ phát hiện ra rằng: “các cổ ngữ như Geek (Hy Lạp), Latin và Sanskrit có nhiều điểm và nhiều đặc trưng đáng chú ý giống nhau. Ví dụ 7 cases, 3 genders, 3 numbers…, điều này chứng tỏ các ngôn ngữ này là đồng đại với nhau.12” Quan điểm này được hầu hếu các học giả đồng tình, họ giả định đã từng có một ngôn ngữ Indo European gốc, nó là mẹ đẻ của Geek, Latin được sử dụng trên lục địa châu Âu, trong khi Sanskrit được sử dụng trên lục địa Ấn. Do đó, châu Âu và lục địa Ấn kết thành một nhóm ngôn ngữ gọi là Indo-European family.
Năm 1870, nhóm ngôn ngữ này bắt đầu có sự có sự phân chia, (quá trình phân chia của nhóm ngôn ngữ Indo-European theo sơ đồ tr.8).
Dựa trên sơ đồ, có thể thấy trải qua 5 lần phân chia, BHS được xếp vào khoảng Middle Indo Aryan (500 BC-1000 AD). Trong giai đoạn này, nhiều quy tắc văn phạm được thiết lập, BHS được dân chúng ở nhiều nơi dùng để viết và nói. Có thể khẳng định BSH khá phổ biến vào thời Middle Indo Aryan. Nhưng để xác định vị trí của BHS trong nhóm ngôn ngữ Ấn-Âu phải tiếp tục tìm hiểu quá trình phân chia của nhóm ngôn ngữ này.
Trong lần phân chia cuối cùng, Middle Indo Aryan được chia thành ba giai đoạn:
Old Middle Indo Aryan period (500 BC-01AD) chủ yếu sử dụng ngôn ngữ Pali, Prakit, Magadhi và một phần Buddhist Hybrid Sanskrit. Các tác phẩm bao gồm:
Mahavatthu, Bát Thiên Tụng, Phổ Diệu, Pháp Hoa…
Middle Middle Indo Aryan period (01 AD-500 AD): đây là giai đoạn phần còn lại của văn học Đại thừa như Dasabhumiisvara, Avadana, Jataka…
Later Middle Indo Aryan period (500 AD-1000 AD): Phật giáo không còn biên tập kinh điển.
Như vậy, “Buddhist Hybrid Sanskrit nằm trong giai đoạn từ Old Middle Indo Aryan period đến Middle Middle Indo Aryan period trong nhóm ngôn ngữ Ấn Âu13”, tức trong khoảng thời gian từ 500 BC-500 AD.
Căn cứ theo thời gian và ngôn ngữ lai tạp, nguyên bản của Buddhist Hybrid Sanskrit chia thành ba thời kỳ:
Giai đoạn đầu: gồm Mahavatthu, đây là tác phẩm xưa nhất trong dòng văn học Buddhist Hybrid Sanskrit, có sự pha trộn của hai ngôn ngữ vùng Trung Ấn…
Giai đoạn hai: gồm các tác phẩm có phần thơ kệ biên tập bằng BHS và phần nhỏ trường hàng sử dụng no-sanskrit như: Thập Địa, Pháp Hoa, Phổ Diệu, Kasyapa, Parivartra, Siksasamuccaya, Udanavarga, Samadhirajisutra, Survarnabhavosahm, Gandavyuha, Sukhaavati vyuha, Raastrapaala Paripriecha…
Giai đoạn ba: phần trường hàng không còn lai tạp, được viết bằng văn phạm thuần chủng , không còn sai phạm bất cứ quy tắc nào và phần thơ kệ hybridized gồm: Lankavatara, Avadana sataka, Mulsarvastivada vinaya, Bát Thiên Tụng, Pratimoksa sutra, Manjusri-Kalpa, Bodhisattvabhumi, Sukhaavati vyuha, Sasahasrika Bát Nhã, Vajracchedika…
Như vậy, trải qua ba giai đoạn, BHS trở nên thuần túy, góp phần quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ, như các học giả đã đánh giá: “Ngôn ngữ Sanskrit này khuynh loát bất kỳ ngôn ngữ nào cổ xưa. Nó cấu trúc tuyệt vời, hoàn hảo hơn cả Hy Lạp, hơn những bản sao chép của Latin, đã thanh lọc tinh tế và đem lại mối quan hệ chặt chẽ hơn trong động từ căn và hình thức văn phạm.14” Buddhist Hybrid Sanskrit được xem như bước ngoặt đưa Phật giáo Đại thừa chuyển mình và thoát xác ra khỏi khung sườn cứng nhắc, bảo thủ và cực đoan. Mặt khác, Sanskrit là ngôn ngữ của tầng lớp thượng lưu, do đó BHS được đánh giá cao bởi giá trị nó mang lại. Tuy rằng, BHS xuất hiện từ sớm, nhưng đến thế kỷ II TCN nền văn chương Sanskrit Phật giáo mới bắt đầu ảnh hưởng mạnh và được phổ biến. Từ đó đến thế kỷ IV SCN, BHS ngày càng phát triển, gây ảnh hưởng lớn trên toàn lãnh thổ Ấn Độ và kéo dài cho đến thế kỷ XII.
Buddhist Hybrid Sanskrit là một cổ ngữ cho đến nay đã ngưng sử dụng, hiện các tác phẩm viết bằng BHS cũng không còn nhiều. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự ra đời của BHS đóng vai trò quan trọng, vừa đáp ứng nhu cầu Phật giáo lúc bấy giờ, vừa để lại nguồn văn học quý giá cho hậu thế. Mặc dù trong Phật giáo, văn học Pali bao hàm cả kho tàng phong phú và đồ sộ, nhưng cũng chỉ mang ý nghĩa biểu trưng cho một trường phái, thịnh hành ở các nước theo truyền thống Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan… Trong khi Ấn Độ và một số quốc gia khác cũng sử dụng Buddist Hybrid Sanskrit để biên tập thành số lượng lớn các tác phẩm Đại thừa Phật giáo. Cho nên, mặc dù văn học Pali đồ sộ nhưng nếu chỉ dựa vào Pali không thể phô bày hết tinh hoa trong Phật giáo cũng như quá trình phát triển của đạo Phật qua các thời kỳ. Ngoài ra, Buddhist Hydrib Sanskrit còn chứng kiến sự hình thành và phát triển của Phật giáo Đại thừa, trường phái có ảnh hưởng lớn trong xã hội hiện nay. Qua đó thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của Buddhist Hydrib Sanskrit đối với sự phát triển của đạo Phật.
Uyển Tường (ĐSHĐ-100)
Diễn đọc: Sc. Quảng Hiếu
- Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa, quyển 79, tr.183.
- Tiểu Phẩm tập 2, Chương Các Tiểu Sự, tr.71.
- Tiểu Phẩm tập 2, Chương Các Tiểu Sự, tr.72.
- Dẫn Luận Ngôn Ngữ Phật Giáo, Báo Giác Ngộ số 262, tr.5.
- Kinh Trung Bộ II, Kinh Vô Tránh Phân Biệt, tr.575.
- Văn Sử Học Phật Giáo, tr.36.
- Kinh Trường Bộ, tr. 304.
- Thích Chơn Minh, Bài giảng môn Văn Học Sanskrit khóa XIV.
- Thích Chơn Minh, Bài giảng môn Văn Học Sanskrit khóa XIV.
- Thích Chơn Minh, Tài liệu giảng dạy môn Văn học Sanskrit.
- On Buddhistic (hybrid) Sanskrit, tr.77.
- Thích Chơn Minh, Tài liệu giảng dạy môn Văn học Sanskrit.
- Thích Chơn Minh, Tài liệu giảng dạy của giáo thọ bộ môn Văn học Sanskrit.
- Lịch sử Văn học Sanskrit và Hán Tạng Phật giáo, tr.3.


















































