Trọng tâm thứ hai của Bát-nhã Tâm kinh là“Sắc”, đặc biệt chỉ cho người. Con người là đối tượng đức Phật nhắm tới. Bởi, đức Phật đi tu vì muốn dứt khổ cho mình và giúp người thoát khổ. Con người chúng ta có hai phần: thể xác và tinh thần hay cũng gọi thân và tâm. Quán sát về thể xác, nhà Phật nói do bốn thành phần khác nhau cấu tạo, đó là đất, nước, gió, lửa. Trong thân con người, những chất rắn gồm tóc, lông, móng, xương, gân, da, thịt v.v… thuộc về đất. Những chất lỏng gồm đàm, dãi, máu, mủ, nước mắt, nước mũi v.v… thuộc về nước. Hơi thở ra, vô thuộc về gió và nhiệt độ trong người của chúng ta thuộc về lửa. Nếu có ai đó hỏi trong bốn thứ đất, nước, gió, lửa, thứ nào là chủ thể của thân? Dĩ nhiên, không phải thứ nào hết, nhưng nếu thiếu một thứ sẽ không có thân hiện hữu.
Hằng ngày ta còn phải ăn uống, hít thở mới sống. Phải mượn thêm đất hay nói cách khác là mượn thức ăn ở ngoài nuôi dưỡng cho đất bên trong; nếu không thì bị ốm còi, thiếu sức sống. Phải mượn nước bên ngoài vào nuôi nước bên trong, nếu không thì chết khát. Phải mượn gió bên ngoài vào để tiếp cho gió bên trong, nếu không thì chết ngạt. Đất, nước, gió, lửa bên trong nếu không vay mượn đất, nước, gió, lửa bên ngoài qua ăn, uống, hít, thở thì nó chết và mượn vào nhiều quá hay ít quá nó cũng làm cho ta bệnh, ta chết.
Sự vay mượn này diễn ra đều đặn mỗi ngày, nếu không cũng chết. Sự tồn tại ấy chỉ trong giai đoạn nhất định, cuối cùng rồi cũng chết. Hiện nay, tuổi thọ con người trung bình chừng tám – chín mươi, nhưng mấy ai sống tới? Có khi vài ba mươi tuổi đã chết, mới sinh ra đã chết, thậm chí mới trong trứng nước cũng bị đẩy ra. Còn và còn nhiều cái chết bất ngờ khác nữa! Chẳng ai dám đảm bảo rằng mình sẽ sống tới đó, sẽ làm chủ sự sống chết, tự tại giữa vô thường, ngoại trừ các bậc đã giác ngộ. Nhưng dù giác ngộ, các ngài cũng chỉ tự tại được phần tâm, còn thân vẫn phải theo qui luật tự nhiên mà trả về cho tứ đại. Vấn đề quan trọng ở đây: Ta đã biết gì về chết? Chết có phải là hết không, theo quan niệm của một số người? Nếu không, cái gì còn lại và còn lại như thế nào?
Chúng sanh sau khi chết chỉ còn lại nghiệp thức
Theo quan điểm nhà Phật, cái còn lại của chúng sanh nói chung và con người nói riêng sau khi chết chính là “nghiệp thức” do chính đương sự tạo ra trong quá khứ. Để rồi khi yếu tố, điều kiện, nhân duyên hội đủ nó hình thành một chúng sanh mới trong cảnh giới tương ứng. Nói rõ hơn, con người sau khi chết, phần thân, vì do bốn đại (đất, nước, gió, lửa) duyên hợp tác thành nên nó sẽ phân hủy và trả về nguyên gốc. Sau đó, chúng lại tùy duyên tương tác với các yếu tố khác, tạo ra vật thể mới. Phần tâm sẽ được nghiệp thức dẫn đi tái sanh trong sáu nẻo luân hồi. Rốt cuộc, không có cái gì mất đi khi chúng ta trút hơi thở cuối, chỉ là hiện tượng thay hình đổi dạng.
Điều này, vào thế kỷ thứ XVIII đã được nhà khoa học Lovoisier, người Pháp chứng minh qua cuộc nghiên cứu và khảo sát về hiện tượng vật chất, ông tuyên bố kết quả: “Không có cái gì sanh ra và cũng chẳng có cái gì diệt đi, tất cả chỉ là sự chuyển tướng trạng”. Rõ ràng lời tuyên bố của ông cho ta thấy khoa học hiện đang tiến gần Phật giáo! Nói chung, ngày đêm cứ đuổi nhau, thay nhau gặm nhấm thân xác con người, làm cho chúng ta mau già, mau chết. Các nhà khoa học ngành y, sau khi nghiên cứu về con người, cũng đã thừa nhận qua lời kết luận:“các tế bào trong con người chúng ta luôn luôn đổi mới”. Đó chính là nguyên nhân của tiến trình già, bịnh và chết của kiếp nhân sinh! Thiền sư Vạn Hạnh đời Lý để lại bốn câu kệ, nói rõ sự vô thường của vạn vật, một nguyên lý tự nhiên, bất di bất dịch.
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.
Nghĩa:
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ đọng sương đông”.
(Thiền sư Việt Nam, cuối thế kỷ XX,tr. 334, HT.Thích Thanh Từ)
Ý nói: thân người giả tạm, mới thấy đó đã liền mất đó; không khác một làn chớp vừa xẹt lên rồi phụt tắt. Mọi vật như cỏ, cây vào mùa xuân thì xanh tươi, đơm bông kết trái; đến mùa thu lại tan tác, rơi rụng, úa tàn. Ngài dạy chúng ta nên mặc kệ cho sự thịnh suy của nó. Bởi, sự thịnh suy cũng chợt đến chợt đi như sương mùa đông đọng trên đầu ngọn cỏ, nắng lên là tan mất!
Tóm lại, con người cho đến mọi vật sở hữu của họ đều do duyên khởi, nên không khả năng tồn tại. Nó luôn luôn thay đổi theo nhát búa thời gian, không hề có một hình tướng cố định nào. Bên trong nó hoàn toàn trống không, rỗng tuếch, không có sự hiện hữu nội tại, giống y như cây chuối, lột hết bẹ rồi không còn gì nữa. Hay nói cách khác, tự nơi nó không thể hiện hữu một cách độc lập, đơn thuần mà cần phải có điều kiện, nhân duyên tác hợp với nhiều yếu tố khác. Đây là điều mà đức Phật khám phá ra sau 49 ngày đêm chuyên sâu thiền định.
Ngài cho đó là định luật Duyên khởi, một nguyên lý tự nhiên đã, đang và sẽ chi phối toàn bộ thế giới loài người. Đó là lý do mà ngài Quán Tự Tại khẳng định “năm uẩn đều Không”, đều không có cái ta thực thể. Nếu nó không có cái ta thực thể thì đâu có gì để chúng ta tham ái, chấp thủ, bám níu nó đến phải gây khổ tạo nghiệp, lặn hụp trong ba cõi sáu đường, vì vô minh che lấp, nghiệp chướng phủ dày khiến chúng ta không đủ trí (tuệ), không đủ dũng (lực) để phá bỏ cái ta, cái của ta. Mặc dù vẫn biết từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thậm chí từng sát na vô thường đang đục khoét thân thể ta, người yêu ta, tài sản ta, danh vọng, địa vị, quyền lực v.v… của ta.
Cũng chính vì chưa phá được cái ta (ngã), cái của ta (ngã sở) đó nên chúng ta luôn tham ái, chấp thủ đủ mọi thứ, dù phải chịu vô số khổ đau tai ách. Đây là lý do đức Quán Tự Tại muốn giúp ta đốn bỏ tận gốc cái ta, cái của ta để được thong dong, tự tại. Nhưng, muốn đốn bỏ tận gốc nó đâu phải dễ! Phải luôn luôn quán chiếu để thấu tỏ một cách sâu sắc rằng năm uẩn đều Không, đều không thực có; phương chi chúng ta lại tham ái, chấp thủ để phải lụy phiền vì nó? Khi sự quán chiếu đã chín muồi, trở thành hiện thực trong cuộc sống. Bấy giờ mới phá nổi “vòng kim cô” chấp ngã, chấp pháp đang siết chặt đầu ta! Đây là trọng tâm thứ hai, đức Quán Tự Tại muốn hà hơi tiếp sức cho chúng ta thoát ly mọi khổ đau tai ách.
Trên đây, chúng ta đã thấy rõ bản chất của Sắc thế nào, Không thế nào, theo duyên khởi tánh Không. Giờ đây, chúng ta thử “tìm hiểu” Không theo tự tánh Không. (Tạm mượn từ “tìm hiểu” thật ra chân lý tuyệt đối không thể dùng kiến thức luận bàn, càng luận bàn càng xa chân lý!) Khác với duyên khởi tánh Không, các bậc đã liễu ngộ như Bồ-tát Quán Tự Tại, chỉ cần thông qua lăng kính Bát-nhã, ngài trực tiếp “soi thấy năm uẩn đều Không”. Không đây đích thực tự tánh Không. Khi công phu của hành giả đạt đến đỉnh điểm, Bát-nhã tự nhiên bừng sáng, chơn tánh hiện bày, tự khắc rõ biết Tánh không của các pháp. Để có chút khái niệm về tự tánh không khi chúng ta chưa giác ngộ, có thể thông qua lời dạy của đức Lục Tổ Huệ Năng mà suy nghiệm: “Này Thiện tri thức! Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh sanh, chứ không phải do ngoài vào, chớ lầm cái ý thức cho là chân tánh tự dụng” (Kinh Pháp Bảo Đàn, tr.147, HT.Tuyên Hóa).
“Tất cả trí Bát-nhã đều từ Tự tánh sanh”, do đó, chúng tôi mới dám định nghĩa Bát-nhã là Tuệ giác từ Chơn tâm (Phật tánh) lưu xuất. Từ lời dạy này ta có thể hiểu một cách không lầm rằng Bát-nhã không khác với Tự tánh, Phật tánh, Chơn tánh, Chơn tâm, Chân không, v.v… Khi lăng kính Bát-nhã soi thấy năm uẩn đều Không, thì Không chính là tánh chiếu soi của Bát-nhã, tức không khác với Bát-nhã, nghĩa là không khác với Tự tánh, Phật tánh, Chơn tánh, Chơn tâm, Chân không, Tánh không v.v… Tùy theo chỗ dụng có nhiều tên gọi khác nhau, chứ thật vốn đồng một thể. Ta có thể nói rằng Tự tánh không chỉ cho cái bản chất thật của các pháp (gồm hữu tình và vô tình), bản chất đó chính là Vô ngã. Hiểu và sống được với Vô ngã này là sống được với vị Phật của chính mình.
(Còn tiếp)
Thích Nữ Như Cương (ĐSHĐ-008)