Ni giới xuất gia làm chánh pháp giảm
Ni giới có mặt làm giảm thọ chánh pháp. Nếu chúng tôi là Ni sẽ không đi tu, đi tu làm giảm thọ chánh pháp, chánh pháp là mang lại an lạc, hạnh phúc cho cuộc đời, giảm chánh pháp tức là mang lại khổ đau cho cuộc sống. Đi tu để mang khổ đau thì đi tu làm gì? Thứ hai về tuệ giác, nếu áp dụng theo công thức lý luận, gậy ông đập lưng ông thì Thế Tôn bị A Nan gài vào bẫy rất lớn. Tất cả mọi chúng sinh đều có tiềm năng thành Phật, Người nữ có thể thành Phật, thành Thánh thông qua con đường tâm linh, chuyển hóa đạo đức. Đức Phật nói tiềm năng Phật tính dành cho mọi loài không phải dành cho người nam. Nếu xét trên cơ sở lý luận, Đức Phật không thấy được điều đó, phải để cho A Nan nhắc nhở.
Đức Phật thành đạo theo Nam tông ba mươi lăm tuổi, năm năm sau thiết lập Ni đoàn, lúc đó Ngài bốn mươi. A Nan hai mươi lăm, còn phàm phu tục tử giống như chúng ta. Sau khi Thế Tôn qua đời và sự hình thành kết tập kinh điển lần thứ nhất, ba tháng sau, A Nan mới chứng A-la-hán quả. Như vậy, mấy mươi năm sau A Nan mới chứng đạo, lúc đó A Nan vẫn còn là thư sinh bạch diện của phàm phu. Trên cơ chế lý luận của phương pháp Phật học, một người phàm phu tục tử như A Nan không thể nào hơn tuệ giác và nhận thức của Thế Tôn. Hai bản văn tiểu phẩm và Kinh Tăng Chi, ta thấy A Nan là người được chứng minh ngược lại, có nghĩa là thông thái hơn Thế Tôn. Điều đó đã tạo nên một nỗi hoài nghi rất lớn đối với các nhà nghiên cứu, không thể nào chấp nhận.
Bản án Thế Tôn đã kết tội treo, làm giảm chánh pháp là một bản án rất nặng. Bản án đó làm cho vai trò của Ni không thể nào có. Thời đại này là thời đại âm thịnh dương suy. Quy luật phát triển của mọi sự vật hiện tượng luôn đi theo hình sin, có những chu kì lên và xuống. Ta lấy cơ sở gì để cho rằng mình là dương, bởi vì dương đâu chỉ đơn thuần thể hiện qua giới tính, hình thù, vóc dáng mà nó thuộc về tâm tính con người. Có nhiều nữ tính cách rất dương tính, bản lĩnh, rộng rãi, thông thái, dấn thân, vô ngã, vị tha. Tất cả những cái đó đều là dương tính. Cho nên, ta không nên nói theo cách của nho giáo âm và dương, thịnh và suy. Dựa vào thịnh suy là quy luật, quy luật đó không loại trừ bất cứ một con người nào. Không nên sợ hãi để hạn chế vai trò và sự đóng góp của Ni giới.
Có rất nhiều mâu thuẫn ở câu tuyên bố “Ni gia nhập vào tăng đoàn, làm cho tăng đoàn mất đi năm trăm năm chánh pháp”. Trước nhất chúng ta hãy xét Kinh Tương Ưng 2, Đức Phật dạy : “có năm thối pháp khiến cho diệu pháp bị hỗn loạn và biến mất. Thế nào là năm? Ở đây, này Kassapa, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không tôn kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư, sống không tôn kính, không tùy thuận Chánh pháp, sống không tôn kính, không tùy thuận chúng Tăng, sống không tôn kính, không tùy thuận học giới, sống không tôn kính, không tùy thuận đối với Thiền định1.
Điều khiến cho diệu pháp bị hỗn loạn và biến mất, là thành phần giáo sĩ đạo Phật và những người Phật tử, được xem là hành giả mà không còn biết tôn trọng vai trò tâm linh, hướng dẫn con đường giải thoát của Thế Tôn, không còn học chánh pháp, không hành trì chánh pháp, không phải là do Ni giới xuất gia. Hơn nữa, một khi Phật và Pháp không được tôn kính, Tăng là tập thể truyền thừa con đường đó sẽ không còn ai quan tâm, thậm chí có thể phỉ báng. Một khi đã có sự bất kính đối với Tam Bảo, có thể làm cho chánh pháp bị giảm thọ. Hậu quả hiển nhiên chính là đời sống đạo đức của con người bị giảm thiểu, trở nên cống cao, ngã mạn và bất chấp nhân quả đạo đức. Nhu cầu thiền định để chuyển hóa thân tâm trong cuộc sống, người ta cũng không quan tâm. Nó là một phản ứng kéo theo rất lớn. Cường thịnh chánh pháp nằm ở chỗ tất cả mọi hành giả Phật giáo phải kính Phật, Pháp, Tăng, phải hành trì đạo đức và phát triển thiền định. Không có một câu nào, ý tưởng nào trong đoạn kinh trên nói người nữ hay là tính cách âm thịnh thì chánh pháp sẽ suy.
Chánh pháp sẽ bị mạt khi một vị đệ tử nghĩ rằng không cần thiết phải nghe chánh pháp, không cần thiết phải học chánh pháp, không cần thiết phải hiểu chánh pháp. Nếu như đặt câu nói này trong bối cảnh hiện tại, khi rất nhiều chư vị tôn túc Phật giáo, có thành kiến với truyền thống đi học, đặc biệt là thế học của những người xuất gia trẻ thì đó là điều rất đáng tiếc. Bởi vì, học thế học sẽ tạo ra một tiền đề và nền tảng về kiến thức để cho hành giả có thể hiểu đạo Phật, học đạo Phật một cách nhanh chóng hơn. Ai có kiến thức thế học nhiều đi vào Phật học rất nhanh. Mục đích của Đức Phật thuyết pháp là làm lợi ích cho nhân sinh, nếu không có người hiểu chánh pháp, không học chánh pháp, không nghe chánh pháp, chắc chắn rằng chánh pháp sẽ bị giảm thiểu, và nó trở thành các vật thí ở trong viện bảo tàng không có giá trị hiện thực trong cuộc sống.
Trong Kinh Tăng Chi tập 3, trang 98 có đoạn : “Kim như la, kim như la nhập điện, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ sống không cung kính, không tùy thuận bậc đạo sư, không tùy thuận pháp, không tùy thuận thân. Họ đã sống phóng vật, không có tiếp đón niềm nở và bày tỏ niềm tôn kính với nhau. Này kim như la, đây là nhân, đây là duyên khiến cho khi Như Lai nhập diệt diệu pháp không còn tồn tại lâu dài”. Thuật ngữ sống tùy thuận là sống trong cách thế hành trì những gì mình được học. Hành trì một cách có phương pháp, hành trì một cách đúng phương pháp đó là tùy thuận. Ở đây, chúng ta bỏ mất đi khuynh hướng sống hành trì về những gì mà Như Lai đã dạy với những gương hạnh mà Như Lai đã sống, với những đức tính mà chư tăng đã làm, do đó chánh pháp bị giảm. Nhất là các thành viên ở trong tăng đoàn với nhau không có niềm nở đón tiếp, không vui vẻ với nhau và phân chia theo ý thức hệ chính trị, theo ý thức hệ Giáo hội, theo ý thức hệ Giáo phái, theo ý thức hệ vùng miền, theo ý thức hệ thân và không thân v.v… đó là chánh pháp sẽ bị giảm.
Trong Kinh Tăng Chi, tập 1, trang 113 Đức Phật nói : Có hai pháp đưa đến sự hỗn loạn mê mờ và biến mất của diệu pháp. Thứ nhất, văn cú bị đảo ngược và thứ hai ý nghĩa chánh pháp bị hiểu lầm. Nếu văn cú bị đảo ngược thời ý nghĩa bị hiểu lầm. Hai pháp này đưa đến an trú, không biến loạn, không biến mất của diệu pháp đó là văn cú phó trí chân chánh và ý nghĩa được hiểu một cách chân chánh. Cơ hội hiểu đúng chánh pháp theo một trật tự văn phạm dẫn đến sự giải thích một cách đúng đắn, về nội dung và ý nghĩa đã làm cho hành giả có tiến trình hành trì rất nhanh chóng và có kết quả tốt bằng không giá trị của chánh pháp dù có cao siêu, huyền diệu đến đâu cũng bị người ta quên lãng bởi vì khó quá.
Dựa vào lời nói này các nhà hoằng pháp, các nhà giáo dục hiện đại cần phải có một tiến trình cách tân lời dịch kinh điển ra ngôn ngữ tiếng Việt. Nếu như nghĩa lý không được hiểu thì chánh pháp bị giảm tuổi thọ. Đây là lời tuyên bố rất chuẩn xác, trở thành kim chỉ nam cho nghệ thuật giáo dục và hoằng pháp trong thời hiện đại. Đối chiếu với bốn điều trên không, có điều nào nói rằng Ni có mặt trong giáo đoàn làm giảm thiểu chánh pháp, mà chỉ nói về cung cách hành đạo, phương pháp làm đạo, cách thức hành trì và không hành trì dẫn đến thọ và không thọ của chánh pháp mà thôi.
Dựa vào hai cứ liệu hoàn toàn của một bài Kinh Tăng Chi, ta thấy có hai quan điểm khác biệt. Đứng về phương pháp luận và logic học, một nhà tư tưởng với một học thuyết không thể nào có mâu thuẫn trước và sau. Nhất là, với Thế Tôn chuyện mâu thuẫn đó không thể có. Bởi vì ngài hết sạch hoài nghi, u minh là đã nhổ lên tận gốc rễ, tuệ giác đã hiển bày như là vầng mặt trời lồng lộng ở trên không gian, các vầng mây mù không thể nào làm giảm ảnh hưởng của vầng tuệ giác đó.
Chúng ta phải tin tuyệt đối 100% sẽ thấy rằng giữa những nội dung của Bát Kỉnh Pháp và những điều vừa nói nó mâu thuẫn với nhau. Từ mâu thuẫn đó cho phép chúng ta đặt vấn đề, điều đó có phải do Đức Phật nói hay không? Đây vẫn còn là một dấu hỏi rất lớn.
Một Tỳ-kheo-ni một trăm tuổi hạ phải cung kính một Tỳ-kheo-tăng xuất gia mới một ngày
Điều thứ nhất : Một vị Tỳ-kheo-ni một trăm tuổi hạ phải cung kính đảnh lễ một vì Tỳ-kheo-tăng xuất gia mới một ngày. Điều này đặt trên nền tảng của giới tính nhiều hơn đạo đức. Ta khách quan hóa thân là một người không phải Phật tử, thì thấy điều đó rất khó có thể chấp nhận. Cơ sở lý luận điều thứ nhất Bát Kỉnh Pháp cho rằng Ni giới đi tu sau tăng đoàn của nam phải cung kính những vị sư huynh đi trước là điều không thể không có. Đó là đạo lý của con người, nhỏ kính lớn. Lý luận này rất hay nhưng có những lỗ hổng. Nếu như dựa vào trật tự của hạ lạp, người đi sau phải cung kính người đi trước mà không đặt trên nền tảng của giới tính, câu nói đó không phải là một vị Tỳ-kheo-ni một trăm tuổi hạ, phải cung kính một vị Tỳ-kheo-tăng một hạ.
Chúng ta phải nói: “Tất cả những vị xuất gia phải giữ tôn ti trật tự của hạ lạp không lấy trên tuổi đời. Hạ lạp lớn làm sư huynh, hạ lạp nhiều làm bậc liên trưởng và những vị đi sau phải tôn kính những bậc tôn túc để có cơ hội gần gũi học tập chánh pháp”. Một trăm tuổi hạ, nghĩa là lúc đó mấy mươi tuổi. Một trăm tuổi hạ, tức là một trăm năm sau vị Tỳ- kheo- ni khoảng 160 tuổi, phải cung kính một vị Tỳ-kheo hai mươi tuổi mới gia nhập vào tăng đoàn một ngày, vô lý vô cùng. Hoàn toàn đặt trên cơ sở của giới tính không phải người đi sau cung kính người đi trước như cơ sở lý luận đã đặt ra.
Đức Phật thường dạy, nguyên lý tương kính trên nền tảng của đạo đức và tuệ giác. Một lần Thế Tôn đến gặp những vị Bà-la-môn trưởng thượng. Cách chào hỏi của ngài rất khác với truyền thống Bà-la-môn là phải quì xuống, đưa bàn tay của mình vào trong lòng bàn chân của vị Bà-la-môn rồi đưa lên đầu để bày tỏ lòng tôn kính. Đức Phật không làm như vậy, đức Phật chỉ chào hỏi xã giao. Nhiều vị cảm thấy rất bất bình, trong đó có người đã dùng nhiều lời rất nặng, thiếu đạo đức bởi vì đã đi ngược lại với truyền thống tôn kính trong Bà-la-môn giáo.
Thế Tôn trả lời rất nhẹ nhàng: Thưa các vị tôn trưởng, theo chúng tôi sự tôn kính không nằm ở các hình thức biểu đạt thông thường, mà được thể hiện ở trong tâm của con người. Giá trị của con người không nằm ở tuổi con tóc bạc, mà nằm ở những gì người đó đóng góp ở phương diện đạo đức và tâm linh. Cho nên, buộc một người nhỏ tuổi phải kính một người lớn tuổi chỉ vì tuổi tác là không đúng. Làm như vậy tạo ra cơ chế là sống lâu lên lão làng. Các tổ chức sẽ không tốt. Phải có đạo đức, phải có giá trị, phải có tuệ giác chắc chắn rằng sự cung kính của người khác, những người đi sau mình sẽ được diễn ra như một quy luật tất yếu. Theo ngữ cảnh này, chúng ta thấy Đức Phật không bao giờ chủ trương nam thì được kính, nữ thì không được kính. Được cung kính hay không nằm ở vai trò đạo đức và tuệ giác. Trong khi đó, điều khoản thứ nhất của Bát Kỉnh Pháp chỉ nói tuổi hạ của Ni, tuổi hạ của Tăng không nói tư cách đạo đức của Tăng và Ni. Chúng ta thấy có những điều không phù hợp với chủ trương của Thế Tôn.
Theo bản dịch của Hòa thượng Minh Châu, mỗi lần các vị Tỳ-kheo-tăng đối đáp với các vị Tỳ-kheo-ni, nếu các vị Tỳ- kheo lớn tuổi hơn thì các vị Tỳ-kheo-tăng lại thưa hiền tỷ. Ta không thấy những lời nói mang tính chất khiếm nhã, bất kính, tương kính lẫn nhau là bản chất của tăng đoàn. Vì cái đó tạo ra phong thái rất đàng hoàng, đĩnh đạc của con người trong quan hệ giao tế. Trong Phật giáo Đại thừa, tinh thần tương kính đặt trên tiềm năng Phật tính rất lớn qua hạnh nguyện của Bồ-tát Thường Bất Khinh “chúng tôi không dám khinh quí ngài”. Tôi phải dùng chữ chúng tôi không dám khinh quí ngài dù người đó là người thiếu lương tâm, vô đạo đức, nhất sĩ đời, phá hoại Phật pháp ngài vẫn nói rằng chúng tôi không dám khinh quí ngài, vì chúng tôi thấy được rằng, tiềm năng Phật tính trong ngài có thể làm ngài trở thành con người đàng hoàng đứng đắn hơn. Cho nên, tôi kính ngài trước để nhắc ngài về chuyện đó, ngài hãy sống với tiềm năng đó. Đó là đạo lý của Đại thừa, đạo lý của nhà Phật. Chúng ta không bao giờ thấy bất cứ một cái gì mang tính cách bất tương kính, thông qua cơ sở của giới tính.
(Còn tiếp)
Trần Ngọc Thảo (ĐSHĐ-010)
1 Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng 2, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1991, trang 386.