Báo chí Phật giáo Việt Nam xuất hiện như là sự tất yếu của hiện tượng xã hội đề cập về lịch sử, văn hóa, tôn giáo… với chủ trương khởi xướng của nhiều nhân vật Phật giáo lỗi lạc, làm phương tiện hoằng pháp độ sanh, nhằm đưa giáo lý đạo Phật đến với mọi tầng lớp nhân dân. Với diễn trình của lĩnh vực báo chí Phật giáo trước năm 1975, báo chí Phật giáo Huế, tại miền Trung, có sự xuất hiện Tạp chí Liên Hoa ‐ Huế là công trình tuyệt diệu của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, đã tạo nên “một diễn đàn thông tin rộng lớn” cho ngành truyền thông báo chí của Phật giáo thời ấy; đặc biệt, đã quy tụ được nhiều cây bút nhân tài. Nhiều Nữ giới ưu tú đã tham gia, đóng góp tiếng nói cho phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam giai đoạn 1954-1975 và cho sự nghiệp phụng sự chúng sinh, lợi đạo ích đời.
1. Tổng quan về báo chí Phật giáo trước năm 1975
Vào đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam, quản trị ở ba miền theo ba chế độ khác nhau và tích cực ủng hộ truyền bá Thiên Chúa giáo với hy vọng dùng tôn giáo mới này xóa bỏ truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt. Tình trạng Phật giáo và báo chí Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX không có gì sáng sủa, bị cô lập, các vị cao Tăng chỉ có thể hun đúc tinh thần cho lớp hậu tiến1.
Vì vậy, rải rác trên khắp đất nước, có những sơn môn duy trì được sự đào tạo thế hệ kế thừa. Hòa thượng Thích Nguyên Biểu (1836 – 1906) chùa Bồ Đề ở miền Bắc; Hòa thượng Thích Vĩnh Gia (1840 – 1918) chùa Phước Lâm – Hội An và Hòa thượng Thích Tâm Tịnh (1868 – 1929) chùa Từ Hiếu – Huế ở miền Trung; Hòa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân (1850 – 1914) chùa Giác Viên – Gia Định và Minh Lương Chánh Tâm chùa Kim Cang – Long An ở miền Nam… đã khai trường thuyết pháp, thu nạp đệ tử, tiếp chúng độ Tăng, âm thầm trao truyền giáo pháp vô thượng của Đức Phật cho những người ưu tú mà các Ngài có duyên gặp được, cung cấp cho các đệ tử phương tiện học tập thêm chữ quốc ngữ, rèn giũa ý thức thượng cầu Phật đạo hạ hóa quần sanh cho những người tiếp xúc với các Ngài, cũng như hun đúc tiếng nói truyền thông của Phật giáo đến với quần chúng người Việt trong tương lai2.
1.1. Báo chí Phật giáo Việt Nam
Đến thập niên 30 của thế kỷ XX, cùng với phong trào kháng chiến chống Pháp và phong trào chấn hưng Phật giáo ở ba miền Bắc – Trung – Nam, báo chí Phật giáo Việt Nam mới thực sự được khai sinh và phát triển với sự đóng góp to lớn của những tạp chí, nguyệt san do chư Tăng Ni lãnh đạo các hội Phật giáo khởi xướng, điều hành. Nội dung thường bao gồm: 1. Bàn luận về Phật giáo: triết học, lịch sử, văn học…; 2. Dịch thuật các kinh Phật; 3. Lịch sử chư Tăng, chư Bồ-tát; 4. Truyện các cao Tăng; 5. Ký sự những nơi danh lam thắng cảnh; 6. Văn thơ; 7. Giải đáp; 8. Chú thích; 9. Tin tức trong nước và thế giới.
Báo chí Phật giáo Việt Nam xuất hiện và trở thành diễn trình cho những nhân vật Phật giáo lỗi lạc làm phương tiện hoằng pháp độ sanh và chuyển tải những thông tin về phong trào chấn hưng Phật giáo cũng đang lan rộng trên toàn quốc và thế giới lúc bấy giờ.
Tờ báo đầu tiên của Phật giáo với tên gọi Pháp Âm là điểm khởi đầu của lịch sử báo chí Phật giáo Việt Nam được xuất bản ngày 31/8/1929 do Hòa thượng Lê Khánh Hòa (1877 – 1947), trụ trì chùa Tiên Linh (Mỏ Cày – Bến Tre) làm chủ nhiệm, được phát hành tại chùa Sắc tứ Linh Thứu – Mỹ Tho. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, tờ báo in (dùng chữ Quốc ngữ Latin), với nội dung thông tin về các vấn đề Phật học, tín ngưỡng; phê bình, bày tỏ thái độ về các vấn đề Phật giáo trước công luận; đề xuất hướng điều chỉnh nhận thức và hành động để xây dựng một nền Phật giáo phù hợp với nhân sinh và thời đại, cũng như là tiếng nói khơi nguồn, nền tảng, vận động, mục tiêu cho phong trào chấn hưng, cho sự điều chỉnh và phát triển Phật giáo, ảnh hưởng lâu dài về sau3.
Dù Pháp Âm chỉ ra được một số duy nhất thì bị đình bản và trở thành kỷ yếu của cuộc vận động chấn hưng Phật giáo nhưng nhờ sự tiên phong đó mà nhiều tạp chí Phật học được thành lập khắp cả nước. Nổi bật đáng kể như là các tờ Viên Âm (1933 – 1943), Giác Ngộ (1949 – 1952) tại Huế; Đuốc Tuệ (1935 – 1945), Phương Tiện (1949 – 1954) tại Hà Nội, Từ Bi Âm (1932 – 1945), Từ Quang (1951 – 1975) tại Sài Gòn, Duy Tâm Phật học (1935) ở Trà Vinh, và tờ Bát Nhã Âm (1936 – 1943) tại Bà Rịa…
Ngoài mục đích trên, các tờ báo Phật học này có thể giúp người đọc tìm lại và khơi dậy một số tinh hoa của Phật giáo, của dân tộc từ lâu đã bị lãng quên. Đồng thời, dựa trên nền tảng này, giúp chúng ta thấy rõ hơn những giá trị đích thực của nền văn học Việt Nam nói chung, của báo chí Phật giáo nói riêng.
1.2. Báo chí Phật giáo Huế
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại Huế có tờ Nguyệt san Viên Âm của cơ quan hoằng Pháp hội An Nam Phật học (Hội Phật học Trung Kỳ). Báo ra số đầu tiên ngày 1/12/1933, do Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám khởi xướng. Từ số 48 (1942), do Đoàn thanh niên trẻ Phật học Đức Dục biên tập. Sau 98 số, Viên Âm tự đình bản vào tháng 9/19434.
Lại thêm, có tờ Nguyệt san Tiến Hóa (1949 – 1950) là tờ báo của thanh niên trí thức Phật tử thuộc tổ chức Gia đình Phật hóa phổ Thuận Hóa. Lại nữa, có tờ Tạp chí Giác Ngộ của Sơn môn Tăng già Trung Việt và Hội Việt Nam Phật học do Ngài Thích Tịnh Khiết làm Tùng lâm Pháp chủ; ra mắt năm 1949; hoạt động đến năm 1952 thì đình bản5.
Đến giai đoạn hội nhập và phát triển của báo chí Huế (1954 – 1975), vào lúc khó khăn và cao trào của cuộc chấn hưng Phật giáo trên toàn quốc, có sự xuất hiện của tạp chí Liên Hoa ‐ Huế6 (1955 – 1966), tờ báo Phật giáo tồn tại lâu nhất tại miền Trung; đầu tiên được biết đến với tên gọi là Liên Hoa Văn tập, về sau là Liên Hoa Nguyệt san.
Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, vị đắc lực góp phần sáng lập nhà in Liên Hoa thuộc Giáo hội Tăng già Trung phần, thành lập và phụ trách Liên Hoa Tùng Thư đã khởi xướng xuất bản ấn phẩm Liên Hoa Văn tập, thực chất là một tạp chí Phật giáo, dành cho giới nữ. Chủ nhiệm tờ Liên Hoa Văn tập là Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, cô Hoàng thị Kim Cúc làm quản lý, ra mắt số đầu tiên vào tháng Giêng năm Ất Mùi (25/3/1955), phát hành đến Sài Gòn và các tỉnh. Cuối năm đó, Ni trưởng nhường báo quán lại cho Tổng Trị sự Giáo hội Tăng già Trung Việt (biên bản họp có ghi trên số 11&12, năm 1955), và giữ vị trí quản lý, biên tập viên7.
Về nội dung của tạp chí Liên Hoa ‐ Huế, gồm có hai chủ trương: “Đưa người từ đời vào đạo lại đưa đạo tham hiệp cùng đời; làm dây liên lạc giữa đời và đạo”, giảng giải Phật pháp từ thấp đến cao, giải đáp thắc mắc đời thường của cư sĩ Phật tử. Báo ra đều đặn mỗi tháng một kỳ, thỉnh thoảng ra số đôi vào các dịp Lễ Phật đản, Xuân hay “số năm” vào sau ngày Pháp nạn trong suốt 12 năm8.
Để có sự hiện diện tạp chí Liên Hoa ngày ấy, phải nói đến vai trò của bậc chân tu – Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905 – 1997), hình tượng đã trở thành ngôi sao Bắc Đẩu cho đa phần nữ giới vùng đất Cố đô Huế nói riêng, nữ Phật tử trên toàn quốc nói chung noi theo để phụng sự Đạo Pháp và Dân tộc.
2. Sơ lược về cuộc đời và hành trạng của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không
2.1. Cuộc đời của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905 ‐ 1997)
Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, thế danh Hồ Thị Hạnh, húy thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh9, sinh năm 1905, là con gái út của Quận công, Thượng thư Bộ Học, Đông các Đại học sĩ Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Lương, người làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế10.
2.1.1. Thân thế và thiếu thời
Xuất thân từ một danh gia vọng tộc, gặp buổi giao thời giữa hai nền văn hóa cũ và mới, nên từ tấm bé, Ni trưởng đã được hấp thụ một nền giáo dục dung hòa cả hai truyền thống Đông – Tây. Thân phụ muốn cho du học ở Pháp, nhưng Người đã không đi. Chí hướng của Người là khôi phục truyền thống Á Đông và nâng cao tinh thần phụ nữ. Bản hoài cao rộng đó thật khó mà thực hiện nếu không thoát ly đời sống gia đình nhỏ hẹp, bởi thế Người đã nhiều lần xin cha mẹ xuất gia. Nhưng vào thập niên 20 của thế kỷ XX, ở Huế chưa có chùa Ni, chỉ các bà lớn tuổi mới được vào chùa Tăng làm dì vải nấu bếp. Người lại là con gái út của một vị đại thần đương thời, được nâng niu như cành vàng lá ngọc, cha mẹ không bao giờ cho phép. Trước trở ngại lớn lao đó, Người đành ở nhà cho trọn hiếu, chờ dịp thuận tiện. Song thân mong Người yên bề gia thất, cứ khuyến khích tham dự các tiệc tùng, dạ hội, nhưng Người một mực nuôi chí xuất trần. Thế rồi, năm 23 tuổi (1928), vì cảm từ tâm của song thân, Người phát bi nguyện độ sinh, bằng lòng kết duyên với cụ Cao Xuân Xang11 để nuôi đàn con dại bơ vơ vừa mất mẹ. Thời gian không lâu, ông qua đời. Từ đây duyên trần nhẹ gánh, Người vừa nuôi đàn con côi, vừa làm Phật sự đắc lực12.
2.1.2. Xuất gia
Năm 1932, khi 27 tuổi, Ni trưởng được Hòa thượng Giác Tiên khai sơn Tổ đình Trúc Lâm truyền thập giới làm Sa-di-ni với pháp tự Diệu Không, nhưng vẫn để tóc để làm Phật sự. Lúc bấy giờ, Ni trưởng thường xuyên giao dịch với người Pháp trong chính quyền bảo hộ với tư cách đại diện Hội An Nam Phật học mà Ni trưởng là một sáng lập viên. Sau khi thọ thập giới 12 năm, vào mùa thu năm Giáp Thân (1944), Ni trưởng được thọ Tam đàn Cụ túc tại đại Giới đàn Thuyền Tôn do Hòa thượng Giác Nhiên đệ nhị Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất làm đàn đầu13.
2.1.3. Những ngày cuối cùng
Mặc dù già bệnh, tinh thần Ni trưởng luôn minh mẫn cho đến giây phút cuối. Mỗi khi ai có việc quan trọng đến thỉnh ý, Ni trưởng đều dạy những lời khuyên hết sức sáng suốt. Như một trái cây chín muồi, như đi cuộc hành trình đã đến đích, sau gần 5 năm già yếu bệnh duyên, Ni trưởng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 2 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu, tức 23 tháng 9 năm 1997, hưởng thọ 93 tuổi đời với 53 hạ lạp14.
TS. SC. Tuệ Đăng (ĐSHĐ-126)
- TS. Huỳnh Văn Tòng (2016), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.257-260.
- Báo chí Phật giáo Việt Nam, http://chuaphuoclinh.net/bao-chi-phat-giao.html, ngày truy cập 25/11/2020.
- Nguyễn Đại Đồng, Về những tờ báo đầu tiên của báo chí Phật giáo Việt Nam, http://www.lieuquanhue.vn/tai-lieu-thu-vien-phim-phat-giao/luu-tru/3045-về-nhữngtờ-báo-đầu-tiên-của-báo-chí-phật-giáo-việt-nam.html, ngày truy cập 25/11/2020.
- Nguyễn Xuân Hoa (2013), Lịch sử Báo chí Huế, NXB. Thuận Hóa, Huế, tr.72-77.
- Nguyễn Xuân Hoa (2013), Sđd, tr.162-164.
- Nguyễn Xuân Hoa (2013), Sđd, tr.217-220; Liên Hoa văn tập (12 quyển) (2015), Huệ Quang ấn hành, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Liên Hoa Văn tập (quyển 1, số 11&12), Sđd, tr.77-78.
- Liên Hoa Văn tập (quyển 1, số 1), Sđd, tr.3.
- Nhất Điểm Thanh: ngụ ý nói lên tất cả công hạnh trọn một đời thanh tịnh trong sáng của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không.
- Sư bà Thích Nữ Diệu Không (2009), Đường thiền sen nở, NXB. Lao động, Hà Nội, tr.30; Hội đồng Gia tộc Hồ Đắc, Bác sĩ Hồ Đắc Duy (2017), Các câu chuyện trong Gia phả Họ Hồ Đắc làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Lưu hành nội bộ, tr.237.
- Cao Xuân Xang, Tham tá Cơ mật viện, con trai thứ của Đông các Đại học sĩ Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục.
- Sư bà Thích Nữ Diệu Không (2009), Sđd, tr.30-33.
- Phân ban Ni giới Thừa Thiên Huế (2015), Quá trình hình thành và phát triển của Ni giới Bắc Tông Thừa Thiên Huế (từ thế kỷ XVII-XX), NXB. Hồng Đức, Hà Nội, tr.24-25.
- Hoài niệm Ân sư của Môn đồ pháp quyến (1997), Diệu Không hành trạng, Lưu hành nội bộ, tr.16.