Từ khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đã gởi đến nhân loại một thông điệp “Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật”. Chính Phật ngôn này đã mở ra cho nữ giới nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung một con đường vượt thoát. Thành tâm kiên nhẫn, hành trì nghiêm cẩn, từ trong chánh định tuệ giác phát sinh, chư vị Tỳ-kheo-ni cũng như nữ cư sĩ tại gia vô cùng hoan hỷ, khi biết rõ mình có thể tu tập Thánh đạo, chấm dứt con đường sanh tử, vĩnh viễn an vui trong tịch tĩnh Niết-bàn. Cho nên, biết một khi đã cương quyết, nữ nhân cũng có thể hoàn thành tâm nguyện của mình bằng tất cả nỗ lực và sự dũng mãnh phi thường.
Khi mê, sức mạnh của nữ nhân là sắc đẹp có thể làm nghiêng thành đổ nước. Lúc ngộ, sức mạnh của nữ nhân là trái tim bi mẫn hết lòng vì tha nhân. Bằng ý chí và nghị lực, sự nỗ lực tinh tấn không ngừng, các ngài có thể tự cứu mình và người ra khỏi biển khổ trầm luân sanh tử. Đức Phật cho biết sức mạnh của người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, có thể tu hành thành tựu đạo quả không hạn cuộc trong giới tính. Thánh sử Trưởng lão Ni từ xưa đến nay đã minh chứng rất rõ về điều này.
Sư Ni Soma sau khi được Đức Phật hướng dẫn triển khai thiền quán, Ngài chuyên tâm nhất ý tiến sâu vào thiền định, chứng được quả A-la-hán. Một hôm nhân đi kinh hành nơi rừng Andhavana, Sư tạm nghỉ chân dưới một gốc cây. Ác ma đến, muốn phá sự an tịnh độc cư của Sư, chúng ẩn mình nói:
Địa vị khó chứng đạt, Chỉ Thánh nhân chứng đạt, Trí nữ nhân hai ngón, Sao hy vọng chứng đạt?
Sư dõng dạc tuyên bố:
Nữ tánh chướng ngại gì, Khi tâm khéo thiền định, Khi trí tuệ triển khai, Chánh quán pháp vi diệu.
Ở tất cả mọi nơi,
Hỷ lạc được đoạn tận,
Khối tối tăm mù mịt,
Đã bị làm tan nát.
Hỡi này kẻ ác ma,
Ngươi hãy biết như vậy,
Ngươi chính là ác ma,
Ngươi đã bị bại trận.
(Trưởng lão Ni Kệ – HT. Minh Châu)
Thánh ngôn trên không chỉ làm chúng ma khiếp sợ thối lui, mà còn là thông điệp gởi đến Ni chúng một niềm tin kiên cố không gì có thể lay chuyển nổi về ý chí và sự nỗ lực tinh cần, để đạt được giác ngộ giải thoát của một chúng hữu tình, bất luận là nam hay nữ. Người xưa một lòng chí thiết tu hành và đạt đạo, quả là công hạnh phi thường, là bài học đáng tôn quý cho tất cả hàng hậu tấn chúng con noi theo.
Ánh sáng đạo giác ngộ cứ thế lan tỏa chiếu soi. Trưởng lão Ni không chỉ hạnh rạng ở vùng trời Népal, mà còn như ánh trăng dịu dàng tỏa sáng khắp muôn nơi. Ở đâu có Phật pháp, ở đó có chúng sanh được giác ngộ giải thoát, nhờ lòng bi mẫn và tuệ giác vô biên của Đức Như Lai. Đạo Phật đến Việt Nam đã vực dậy sự mê mờ của người dân nơi đây, đưa đến bờ giải thoát an vui, trong đó có nữ nhân chúng con, đến nay gương sáng vẫn còn chiếu soi.
Thiền sư Ni Việt Nam – Ngài Tuệ Thông xuất gia tu khổ hạnh trên núi Thanh Lương, suốt đời nghiêm cẩn giới luật, miên mật thiền định, tuệ giải thông suốt, thường ngồi ít nằm, diện mạo giống hệt La-hán. Kẻ đạo người tục xa gần đều kính mộ, danh tiếng lừng lẫy, là bậc Tông sư của Ni chúng cả nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc cao Tăng. Vua Trần Nghệ Tông (1370 – 1372) ban hiệu là “Tuệ Thông Đại sư”.
Tuổi già, Sư dời về ở Đông Sơn. Một hôm, bảo đệ tử rằng: “Ta muốn đem thân hư ảo này thí cho hổ lang một bữa no”. Nói xong liền vào núi sâu ngồi kiết-già, không ăn uống 21 ngày, hổ lang tới ngồi xung quanh mà không dám làm gì. Đồ đệ nài nỉ Sư trở về am. Về am, Sư đóng cửa nhập định qua một mùa hè, rồi tập hợp đệ tử lại dặn dò mọi việc, trong đó có một tâm nguyện: “Sau khi ta đi nên chia bớt xương ta lại đây để mài rửa tật bệnh cho người đời”. Nói xong liền hóa, tuổi ngoài 80. Lúc hỏa táng có rất nhiều xá-lợi.
Đệ tử khi nhặt hài cốt, thấy không đành bèn cho hết vào trong hộp niêm phong lại. Qua đêm, bỗng một chiếc xương cùi tay nằm trên bàn, bên ngoài hộp, Ni chúng kinh ngạc về sự linh nghiệm của Sư. Về sau, có người mắc bệnh đến khẩn cầu, đệ tử đem xương mài với nước cho rửa, mọi người lành bệnh ngay. Sự thệ nguyện của Sư sâu rộng như thế.
(Trích Nam Ông Mộng Lục)
Tinh thần nhập thế tích cực chính là một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo nước ta, trong đó không thể phủ nhận sự có mặt của Ni giới Việt Nam, tuy còn rất khiêm tốn nhưng đã mang lại suối nguồn tình thương, xoa dịu phần nào niềm đau nỗi khổ cho nhân sinh, đặc biệt là nữ giới với những đặc điểm riêng của mình. Người con gái Như Lai đến với tha nhân như trở về với chính mình. Hiểu biết và cảm thông, từng vui buồn khốn khó đời thường, nâng đỡ sẻ chia miếng cơm manh áo.
Thời ấy, đâu thể hoằng pháp bằng cách thăng tòa thuyết pháp, giảng đạo dạy kinh. Sứ giả Như Lai phải tùy thời tùy cơ ứng hiện đi vào đời cứu độ quần sanh bằng nhiều hình thức. Thân cận bao dung, sinh sống hòa đồng với dân quê nghèo khó, dùng thân giáo để dẫn dắt chúng sanh đến gần với lý đạo nhiệm mầu. Đây cũng chính là phương tiện độ sanh tích cực trong nhà Phật, từ đó dẫn nhập mạch nguồn Phật pháp thông lưu và trường viễn cùng dòng chảy của lịch sử dân tộc.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập cho đến ngày nay trải qua bao thời đại, bao thăng trầm biến dịch của đất nước, mạch nguồn Phật pháp vẫn tuôn chảy không dừng nghỉ và bủa khắp trong lòng người dân nước Việt. Dù hoàn cảnh đất nước như thế nào, thời loạn lạc giặc giã hay hòa bình an ổn, vẫn tản mác đâu đó trong nhân gian hình ảnh chư Ni Phật giáo Việt Nam hiền hòa, bình dị thân quen với nếp sống của người con Phật. Tuy ngọc phả, bia ký về quý ngài rất khiêm tốn nhưng vẫn nói lên được đạo hạnh, nề nếp tu hành cũng như sự truyền thừa xuyên suốt qua từng thế kỷ.
Mạch nguồn đó cứ âm thầm tuôn chảy và gắn liền hài hòa với nhịp sống của dân tộc. Cuộc đời xuất gia hành đạo của quý ngài tuy nhịp nhàng theo sự trở mình của đất nước, song vẫn giữ được nét bình dị chân thường, uyển chuyển tùy thời lợi sanh. Dù nhân duyên hóa đạo có bình dị thôn dã hay quảng đại sâu rộng, vẫn thể hiện được tinh thần bi trí tròn đầy của những người con gái dòng họ Thích. Theo chân các bậc tiền nhân sống đời tỉnh thức, thực hành hạnh nguyện của các bậc Bồ-tát đi vào đời làm lợi ích chúng sanh. Sự có mặt của quý ngài chính là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của Ni giới Việt Nam trong các thế kỷ kế tiếp.
Nhắc lại một góc nhỏ trong trang sử Ni giới xưa nay, tuy dòng thời gian vô thường sanh diệt, nhưng vẫn tỏa sáng những tấm gương bất diệt cho muôn đời cùng soi chung. Thật tự hào cho hàng hậu học chúng con có được các bậc tiền bối gầy dựng nên một nền tảng đạo hạnh và nề nếp tu tập mẫu mực. Đặc biệt, Ni giới Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Giáo hội, luôn song hành cùng vận mệnh đất nước, lợi mình lợi người, xây dựng đời sống đạo đức trên tinh thần nhân quả nhân duyên, chuyển hóa nhân gian ngày càng hiền thiện và tốt đẹp hơn. Đó là điều kiện thuận lợi để sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của Ni giới ngày nay dễ dàng nhập lưu vào đời sống văn minh hiện đại và phát triển trên phạm vi rộng lớn của cả nước.
Tuy cơ duyên và hạnh nguyện của mỗi chúng đệ tử khác nhau, nhưng đã là Thích tử Như Lai, tất cả chúng con đều có chung hạt giống Phật, đi chung con đường Phật, hành chung đại hạnh Phật. Diệu dụng Như Lai cứ thế ứng hiện nâng đỡ từng bước chân chúng đệ tử đi vào đời. Mỗi người mỗi hạnh, mỗi việc làm, mỗi công phu… tất cả đều được Thế Tôn dìu dẫn tiến lên trên đạo lộ trí tuệ và tình thương. Ở đó có ánh sáng của niềm tin và nguồn vui chân thật không thối chuyển.
Vì thế, dù ở bất cứ nơi đâu, chỉ mong Ni giới Việt Nam dưới sự hướng đạo của đại Tăng và các bậc Trưởng lão Ni, luôn gắn kết một nhà, nối rộng vòng tay cùng chuyển bánh xe pháp, tịnh hóa nhân gian, phổ độ chúng sanh viên thành Phật đạo.
NS. Thích Hạnh Chiếu