Dẫn nhập
Trong suốt những năm thuyết pháp độ sanh Đức Phật đã để lại một kho tàng kinh điển vô giá. Ngoài những di sản quý báu ấy của Đức Phật, còn có hai sự kiện vô cùng trọng đại đối với lịch sử nhân loại, đó là sự bãi bỏ chế độ giai cấp và giải phóng phụ nữ thoát khỏi cảnh nô lệ. Hơn thế nữa việc thành lập Giáo đoàn Ni – là một cuộc cách mạng vĩ đại, chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại, người nữ được chấp nhận vào đời sống xuất gia. Trong bối cảnh đó Đức Phật Thích Ca ra đời. Có thể nói, sự xuất hiện của Ngài đã mở ra một bước ngoặt lịch sử “vô tiền khoáng hậu”, với những tư tưởng từ bi, bình đẳng của Ngài đã xóa tan đi những đám mây u ám, loại bỏ những tà thuyết rối ren. Đức Phật dạy:“Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, trong dòng máu cùng đỏ và cho dù là nam hay nữ, giàu sang hay nghèo hèn, địa vị cao hay thấp… tất cả đều có khả năng tu tập và giải thoát giác ngộ trong giáo pháp của Như Lai.”
Không chỉ ở phương diện xã hội, về khả năng tu tập giải thoát, quan điểm của Thế Tôn đối với nữ giới cực kỳ khoáng đạt. Ngài tuyên bố rằng, giới tính không phải là trở ngại chính cho việc thanh lọc thân tâm, nếu được tu tập trong chánh pháp đầy đủ kỷ cương, giới luật thì hàng nữ lưu vẫn chứng đắc Thánh quả. Sự hình thành giáo đoàn Tỳ kheo Ni và các vị Thánh đệ tử Ni đã xác chứng điều ấy.
1. Cuộc đời và công hạnh của Thánh tổ Ni Đại Ái Đạo
Câu chuyện xúc động về Di mẫu Mahàpajàpati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề) bắt đầu từ rất xa xưa, thuở Đức Phật Padumuttara (Liên Hoa) còn tại thế. Một hôm, khi đang nghe Đức Phật Liên Hoa thuyết pháp, bà Mahàpajàpati chợt nhận thấy có một Tỳ kheo Ni thật đáng tôn quý, đứng đầu hội chúng Tỳ kheo Ni, và là người giác ngộ sớm nhất. Bà liền lập thệ nguyện rằng, trong tương lai, do công đức tu tập, bà sẽ được như vị Tỳ kheo Ni ấy. Lời nguyện của bà đã được Đức Phật Liên Hoa ấn chứng là sẽ thành tựu trong thời kỳ của Đức Phật Gotama (Thích Ca). Suốt quãng đời còn lại, bà đã nỗ lực phi thường trong việc thực hành các thiện pháp. Sau khi mạng chung, bà hưởng những phước báo nhân thiên cho đến thời kỳ Đức Phật ra đời.
Vì vậy, trong này, bà đã làm con của đức vua Suppabuddha (Thiện Giác), xứ Devadaha, em gái của hoàng hậu Maya, và được gọi với cái tên Mahapajapati – như lời tiên đoán của những bậc tiên tri – là người dẫn dắt một hội chúng lớn.
Sau khi vua Tịnh Phạn qua đời, Nanda và Rahula (La Hầu La) theo Phật xuất gia, Mahàpajàpati không còn bất kỳ một niềm vui thú nào đối với cuộc đời này nữa, ý chí xuất ly đến với bà một cách mãnh liệt. Cơ duyên đã đến với bà khi Đức Phật trở lại quê nhà để hòa giải vụ tranh chấp nguồn nước sông Rohini (nay là Rowai) giữa hai dòng tộc Sakya và Koliya. Uy danh của Bậc Giác ngộ đã làm cho cuộc tranh cãi đầy cuồng nộ được xoa dịu, hòa giải thành công mà không đổ một giọt máu. Nhân đó, Phật thuyết kinh Tranh luận (Kalaha Vivada), khiến cho 500 thanh niên dòng họ Thích cảm kích xuất gia. Di mẫu Mahàpajàpati liền đến gặp Đức Phật tại vườn Ni Câu Luật (Nigrodharama), ngoại thành Kapilavatthu và xin Phật cho phép phụ nữ được xuất gia. Bà nói: “Bạch Đức Thế Tôn, thật đại hạnh cho nữ giới nếu Đức Thế Tôn cho phép họ từ bỏ nếp sống gia đình, được sống trong giáo pháp và giới luật của Đức Như Lai.” Mặc dầu thiết tha thỉnh cầu đến ba lần vẫn bị Đức Thế Tôn từ chối. Nước mắt giàn giụa, bà đành buồn bã quay trở về.
Tuy nhiên, không nản chí trước sự từ chối của Đức Thế Tôn, sau khi Phật trở lại Vesali (Tỳ Xá Ly), bà Mahàpajàpati quyết định rũ bỏ tất cả những đồ trang sức, xuống tóc, đắp y, cùng với 500 người nữ dòng họ Sakya, chân trần đi bộ đến Vesali để cầu xin xuất gia. Đoạn đường từ Kapilavatthu đến Vesali dài 150 dặm (gần 250km). Khi đến nơi, đôi chân của họ sưng phồng và rướm máu, mình mẩy lấm đầy bụi đường. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ngự tại Mahavana, trong giảng đường Kutagara. Cả đoàn người đứng ngoài giảng đường, kiệt quệ, hốc hác, hướng về phía Đức Thế Tôn, khóc nức nở.
Tôn giả A Nan thấy bà Mahàpajàpati cùng 500 Thích nữ khóc lóc thảm thiết trước cổng tịnh xá, bèn vội ra hỏi: “Vì sao bà cùng 500 người nữ Sakya đứng nơi đây than khóc?” Mahàpajàpati đáp: “Chúng tôi là người nữ không được Đức Phật cho phép xuất gia thọ Đại giới trong giáo pháp của Ngài”. Nghe vậy, ngài A Nan bèn đến xin Đức Phật cho phép người nữ được xuất gia. Nhưng Đức Phật vẫn một mực từ chối, Ngài nói: “Nếu người nữ xuất gia thọ Đại giới trong giáo pháp của Phật thì sẽ khiến cho Phật pháp trụ thế không lâu dài.” Tôn giả A Nan liền bạch Phật: “Ngài Di mẫu đối với Phật vốn có ân sâu, Người đã nuôi dưỡng Thế Tôn khôn lớn”. Phật xác nhận: Đúng vậy. Tôn giả A Nan đã khéo thỉnh cầu Phật cho phép Nữ giới gia nhập Tăng đoàn, trở thành những Tỳ kheo Ni, khi ngài hỏi Phật rằng: những người Nữ trong pháp Phật xuất gia có chứng được Thánh quả không? Đức Phật trả lời: Có thể chứng được! Như vậy, Đức Phật công nhận có thành tựu Thánh quả của Nữ giới. Ngài cho phép Nữ giới xuất gia với điều kiện phải tuyệt đối giữ gìn bát kính pháp.
Hay tin Đức Phật chấp thuận, bà Mahàpajàpati vui mừng khôn xiết. “Nếu Đức Thế Tôn đã vì những người nữ nói Tám pháp không thể vượt qua này rồi, thì tôi và năm trăm người nữ Sakya sẽ cùng nhau cúi đầu thọ nhận”. Ngay sau đó, di mẫu Mahàpajàpati và 500 Thích nữ cùng theo bà được Đức Phật cho phép thọ Đại giới, trở thành những vị Tỳ kheo Ni đầu tiên của giáo đoàn. Đức Phật cũng trở thành vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử cho phép thành lập Ni đoàn, sự kiện này được xem là một cuộc cách mạng vĩ đại nhất thời bấy giờ.
Đến khi Thế Tôn ở Tỳ Xá Ly (Vesàli) tuyên bố không quá ba tháng sau sẽ nhập Niết bàn tại Ta La song thọ, xứ Câu Thi Na (Kusinara), Mahàpajàpati nghĩ rằng: “Ta không kham nhẫn nhìn thấy Như Lai diệt độ, ta nên diệt độ trước.” Nữ Tôn giả đã đến xin phép Phật nhập diệt trước và được chấp nhận. Sau khi Mahàpajàpati công bố với Ni đoàn về quyết định nhập diệt của mình thì 500 vị Tỳ kheo Ni cũng phát nguyện nhập diệt theo. Chính Thế Tôn trực tiếp đưa nhục thân Mahàpajàpati đến chỗ hỏa thiêu, lấy gỗ chiên đàn chất lên trên thân di mẫu, chủ trì lễ trà tỳ. Xá lợi của Mahàpajàpati cùng 500 vị Tỳ kheo Ni được xây tháp phụng thờ.
Lòng quyết tâm cầu đạo của Thánh tổ Đại Ái Đạo không chỉ thể hiện qua những biểu hiện bên ngoài mà còn qua việc tuân thủ bát kính pháp. Bởi vì đối với Thánh Tổ, được xuất gia và thực tập Chánh pháp là điều quan trọng nhất, cần thiết nhất. Đừng nói chỉ có tám pháp, cho dù nhiều hơn nữa Thánh Tổ cũng chấp nhận, vì chúng không cản trở gì đối với sự tu tập.
Có thể nói rằng, bát kính pháp như là một sự nhắc nhở về hạnh khiêm cung của Đức Phật hay chư Tổ dành cho Ni giới, do bản chất của người nữ không được kiên định như người nam. Điều này chính Đức Phật đã nhiều lần đề cập, những ai có nghiên cứu giáo pháp đều không thể phủ nhận.
Từ khi xuất gia, Thánh Tổ Đại Ái Đạo chỉ biết phục tùng Đức Phật và tu tập theo lời Phật dạy, cũng như bà đã dạy các Tỳ kheo Ni khác tuân thủ hạnh nhu hòa khiêm cung ấy. Nhờ vậy mà bà mau chóng chứng đắc Thánh quả, trở thành vị lãnh đạo tối cao trong hàng Ni giới, được Đức Phật và chư Tăng kính trọng. Thánh Tổ Đại Ái Đạo sống hơn 90 tuổi mới nhập Niết-bàn. Bà nhập Niết-bàn trước Đức Phật gần ba tháng, vì “không nỡ nhìn thấy Như Lai diệt độ”.
Đức Phật đứng trước đại chúng đã tán thán công hạnh của Thánh tổ Ni như sau: “Này chư Tỳ kheo, các ông đừng nên xem thường Tỳ kheo Ni Đại Ái Đạo là người nữ. Tuy là thân nữ nhưng lại có đức tính trượng phu, là người có đức hạnh cao cả, xứng đáng làm gương cho Tăng đoàn mai sau”. Theo tác giả Khả Triết, trong các bậc long tượng trong Phật giáo, Đức Phật đối trước đại chúng tán thán đức hạnh của Đại Ái Đạo là vì muốn hàng nữ giới sau này hãy noi theo tấm gương sáng của người mà tu học, nhất là tấm gương về bát kính pháp.
2. Thập Đại đệ tử Ni kiệt xuất của Đức Phật
Song song với Thập Đại đệ tử Tăng, bên Ni giới cũng có Thập Đại đệ tử Ni, đây là những vị Thánh Ni kiệt xuất, lỗi lạc. Mười vị Thánh Ni này xuất thân từ nhiều giai cấp khác nhau trong xã hội và có hoàn cảnh cá nhân đặc biệt. Mỗi vị tiếp cận giáo pháp của Đấng Từ Phụ, nỗ lực tu tập và sau đó đều chứng đắc quả vị A La Hán.
1. Nữ tôn giả Mahàpajàpati, trước đây là hoàng hậu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) (phụ thân của Đức Phật) cai trị nước Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ). Nữ tôn giả là vị Tỳ kheo Ni đầu tiên và là vị lãnh đạo Ni đoàn.
2. Nữ tôn giả Khema, trước đây là ái phi của vua Bình Sa cai trị nước Magadha (Ma-kiệt-đà). Nữ tôn giả là vị có Trí Tuệ đệ nhất trong Ni đoàn, cũng như tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) bên chư Tăng.
3. Nữ tôn giả Uppalavanna, xuất thân từ gia đình thương mại, khi chưa xuất gia, sắc đẹp của cô nổi tiếng khắp kinh thành thời bấy giờ.
Sau khi vào Ni đoàn, nữ tôn giả tu tập phát triển thần thông lực và được Đức Thế Tôn tán thán là vị Ni có Thần Thông đệ nhất, cũng như tôn giả Mogganlanna (Mục Kiền Liên) bên chư Tăng.
4. Nữ tôn giả Dhammadinna, trước đây là một người phụ nữ ngoan hiền, đảm đang thuộc giai cấp thượng lưu. Sau khi xuất gia, nữ tôn giả nỗ lực tu tập và được Đức Thế Tôn khen ngợi là vị Ni Thuyết Pháp đệ nhất trong Ni chúng.
5. Nữ tôn giả Patacara, khi chưa xuất gia là một quả phụ đau khổ, tuyệt vọng. Sau khi xuất gia nữ tôn giả chứng quả A La Hán và là vị Ni Bảo Hộ Nữ Nhân đệ nhất trong Ni chúng.
6. Nữ tôn giả Kisagotami là người trước đây đến xin Đức Thế Tôn cho con trai bà một liều thuốc để sống trở lại. Sau khi xuất gia, nữ tôn giả được Đức Phật tán thán là vị Ni có thắng hạnh Khổ Hạnh đệ nhất trong Ni đoàn.
7. Nữ tôn giả Bimba, trước đây là thứ phi của thái tử Siddhartha, sau khi xuất gia được Đức Thế Tôn công nhận là vị Ni An Trú Tâm đệ nhất.
8. Nữ tôn giả Bhadda Kundalakesa, một phụ nữ trẻ, sôi nổi, sau khi xuất gia trở thành vị Ni Lãnh Hội Ý Pháp đệ nhất trong Ni chúng.
9. Nữ tôn giả Soma, khi chưa xuất gia là một người mẹ đảm, thất vọng, chán chường. Sau khi gia nhập Ni đoàn, nữ tôn giả đã tu tập tinh tấn, đoạn trừ tất cả lậu hoặc trong tâm và được ca ngợi là vị Ni Tinh Tấn đệ nhất trong Ni đoàn.
10. Nữ tôn giả Nanda, một công chúa xinh đẹp, tinh tấn tu tập diệt trừ tính ích kỷ và tính tự yêu mình, quá chú ý, chăm sóc đến vẻ đẹp của mình; sau này đắc quả A La Hán và được Đức Phật tán dương là vị Ni Thiền Định đệ nhất.
3. Bát kính pháp – Kim chỉ nam của Ni giới
Bát kính pháp do Đức Phật chế ra nhằm bảo hộ Ni đoàn, giữ gìn sự đoàn kết, thanh tịnh và hòa hợp cho đoàn thể đệ tử xuất gia của Ngài. Ni đoàn có sự bảo hộ này sẽ yên ổn và tinh tấn tu tập, sớm thành tựu đạo quả.
Xuyên suốt những vấn đề trên, nhìn lại thì Tăng đoàn nói chung hay các Tỳ kheo nói riêng chẳng có được mất, hơn thua, hay lợi ích gì trong việc này cả. Việc bất bình đẳng trong Bát kính pháp có chăng chỉ là nghiệp tánh, tức là sự khác biệt về nghiệp thức của người nam và người nữ mà thôi. Cho nên, Phật tánh thì bình đẳng nhưng nghiệp tánh thì có khác biệt giữa Tăng và Ni hay nam và nữ. Do đó, chúng ta không thể vin vào đây để nói Đức Phật đã bất bình đẳng, bất công bằng khi chế ra bát kính pháp dành cho chư Ni.
1. Tỳ kheo Ni dù 100 tuổi hạ cũng phải đảnh lễ một Tỳ kheo vừa mới thọ giới một ngày. Kính pháp đầu tiên này, mới nhìn qua ta thấy Đức Phật bất bình đẳng đối với Ni giới, nhất là quý Ni trưởng, Ni sư. Nhưng trên thực tế, nếu bất cứ Tỳ kheo Ni nào chí thành thực hiện với lòng tịnh tín và tâm hoan hỷ sẽ có những lợi ích như sau:
– Về mặt lợi ích: Sẽ giúp các Tỳ kheo Ni tiêu trừ tâm chấp ngã và thăng hoa đời sống tâm linh, hướng đến Niết bàn an lạc (vì vô ngã là Niết bàn).
– Về mặt lợi tha: Việc tuân giữ kính pháp này của chư Ni sẽ là điều cảnh tỉnh các Tỳ kheo, đặc biệt là tân Tỳ kheo, luôn phải biết quán chiếu tự thân, tu tập để làm sao xứng đáng với sự cung kính của chư Ni. Các Tỳ kheo Ni trưởng thượng, nếu tuân thủ một cách nghiêm ngặt kính pháp này thì đối với chư Ni, nhất là những vị Ni trẻ, sẽ là một tấm gương sáng để các Ni noi theo, áp dụng và tu tập đúng đường lối Đức Phật chỉ dạy thì chắc chắn sẽ hoạch thu được nhiều lợi ích.
– Về mặt Tăng đoàn thì kính pháp này được xem là bức tường thành kiên cố, góp phần ngăn cản những bất thiện pháp có thể xảy ra giữa hai bộ Tăng Ni, nhất là những Tăng Ni trẻ tuổi.
2. Tỳ kheo Ni không được an cư ở một trú xứ không có chư Tăng. Kính pháp này được chế định là vì lợi ích trực tiếp cho Tỳ kheo Ni.
Dù trong thời Đức Phật hay thời hiện tại, sự sinh hoạt và tu tập của Ni đoàn nếu được Tăng đoàn bảo hộ đúng như pháp sẽ góp phần an ổn và lợi ích cho chư Ni trên lộ trình hướng đến giải thoát.
3. Mỗi nửa tháng đến ngày Bố-tát, Tỳ kheo Ni phải đến Đại Tăng cầu giáo giới. Kính pháp này được chế định cũng vì lợi ích thiết thực cho Tỳ kheo Ni. Thời Đức Phật tại thế, Ngài giao trách nhiệm giáo giới chư Tỳ kheo Ni cho những vị Trưởng lão Tỳ kheo có uy tín. Thời nay những vị giáo thọ đi giáo giới chư Ni, hoặc do chư Ni thỉnh đích danh, hay do Đại Tăng đề cử thì phải đủ 10 điều kiện: Một là phải đủ 20 tuổi hạ, hai là giới luật phải vẹn toàn, ba là kiến thức phải rộng rãi, bốn là phải thông suốt hai bộ luật Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni, năm là quyết đoán rành mạch các vấn đề liên quan đến Giới luật, sáu là xuất thân từ một gia đình nề nếp, bảy là dung nghi đoan chánh, tám là thuyết pháp giỏi, chín là có khả năng thuyết pháp khiến mọi người hoan hỷ, mười là chưa từng phạm các trọng giới (Luật học tinh yếu, HT. Thích Phước Sơn biên soạn). Chư Ni được các vị giáo thọ hội đủ những điều kiện như trên giáo giới thì chắc chắn sẽ khai mở nhiều điều vướng mắc trong sinh hoạt cũng như tu tập. Chính vì mang lại nhiều lợi ích thiết thực như thế nên Đức Phật chế chư Ni phải đến Đại Tăng cầu giáo thọ trong ngày Bố-tát.
4. Sau mùa an cư, chư Tỳ kheo Ni phải đến cầu xin tự tứ với nhị bộ Tăng Ni. Tự tứ có nghĩa là tùy hỷ thỉnh cầu, nghĩa là sau ba tháng an cư, đến giờ tự tứ, hành giả quỳ trước Đại Tăng để phát lồ (nói ra) những cái hay dở, tốt xấu… của mình, và cầu thỉnh Đại Tăng chỉ bảo cho mình ba việc: Thấy, nghe, nghi tội. Khi được Đại Tăng chỉ bảo xong, mình vui mừng đảnh lễ và xem Đại Tăng là bậc thiện tri thức đã trợ duyên cho mình tiến tu đạo giải thoát. Sau khi phát lồ và sám hối nghiệp chướng xong, tâm của hành giả tràn đầy hoan hỷ và an lạc.
5. Vị Ni phạm tội Tăng tàn phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin hành pháp Ma-na-đọa trong nửa tháng. Kính pháp này giúp chư Ni phục hồi sự thanh tịnh cho một người phạm tội, giúp vị ấy trở lại sinh hoạt trong Tăng đoàn, dưới sự chứng minh của nhị bộ Tăng Ni. Lời dạy dỗ của vị giáo thọ đại diện Tăng đoàn có thể hướng dẫn và truyền trao kiến thức cho những Ni phạm tội nói riêng, đồng thời gián tiếp giáo giới chư Ni nói chung, cố gắng tu hành, đừng để vướng vào những tội như vậy. Chính vì thế, Đức Phật đã chế kính pháp này.
6. Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm, muốn thọ Tỳ kheo Ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin. Bởi khi Đức Phật trao Bát kính pháp cho Di mẫu Kiều Đàm thì chỉ có “muốn thọ Tỳ kheo Ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin”, cũng là vì lợi ích của Tăng Ni nhị bộ nên Đức Phật mới chế định. Tăng đoàn được thành lập trước Ni đoàn 8 năm, và trong đoàn thể ấy có rất nhiều vị đệ tử của Đức Phật là những bậc thượng thủ đã chứng quả A-la-hán, có đủ uy đức để dạy dỗ chư Ni. Ni đoàn thành lập sau, cho nên việc chư Ni nương vào và thông qua Đại Tăng để được thanh tịnh thọ giới Tỳ kheo Ni là một việc hoàn toàn lợi ích. Vả lại, bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp của đất nước Ấn Độ lúc đó, nếu Ni đoàn không nương tựa vào Tăng đoàn thì sẽ không thể tồn tại. Hơn nữa, đoàn thể xuất gia đệ tử của Đức Phật bao gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di và Sa-di-ni, thế thì việc Ni đoàn thông qua Tăng Ni nhị bộ những vấn đề liên quan đến giới luật cũng là việc đúng nguyên tắc, thể hiện sự đoàn kết, thanh tịnh và hòa hợp theo tinh thần mà Đức Phật chế định. Chính những lý do nêu trên nên kính pháp này có mặt để giúp cho sự tu tập và hưng thịnh của Ni giới vậy.
7. Vị Ni không được phép chửi rủa hay sỉ vả vị Tăng trong bất cứ trường hợp nào.
8. Chư Ni không được phép quở trách chư Tăng, chư Tăng được quyền quở trách chư Ni. Kính pháp thứ bảy và thứ tám cũng nói lên lợi ích trong đời sống cộng trú thanh tịnh và hòa hợp của nhị bộ Tăng Ni, cũng là điều vô cùng cần thiết nhằm đem lại uy tín và đạo hạnh cho từng cá nhân trong Ni đoàn. Tuy nhiên để giữ sự bình đẳng giữa hai đoàn thể Tăng và Ni, Đức Phật đã chế ra pháp Yết-ma cảnh cáo Tỳ kheo cho Ni bộ trong ba trường hợp sau đây:
“1. Nếu một Tỳ kheo phá giới (trọng giới) phạm trai.
2. Nếu có Tỳ kheo đánh mắng Tỳ kheo Ni hoặc thóa mạ, hoặc ném hoa, tát nước, hoặc nói những lời thô bỉ, trá ngụy, khuyên dụ… làm cho chư Ni phiền não.
3. Nếu có vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa nuôi đệ tử mà không dạy dỗ để đệ tử đến chùa Ni quậy phá, chư Ni thưa trình ba lần mà chú Sa-di không chịu sửa đổi”.
Trong ba trường hợp này, chư Ni có quyền yết-ma tác pháp “không cộng ngữ, không lễ bái, không cúng dường” (Cương yếu giới luật, HT. Thích Thiện Siêu biên soạn).
Hiểu được như vậy để thấy rằng, nếu không có Bát kính pháp thì giới thể của Tỳ kheo Ni không thành tựu; mà khi giới thể không thành tựu thì làm sao đạt được sự định tĩnh và trí tuệ giải thoát. Hiểu được như vậy để chúng ta khởi lòng tri ân vô hạn Đức Thế Tôn, bởi nếu không có sự đồng thuận của Ngài thì hôm nay đã không có mặt của Ni đoàn, không có tiếng nói làm căn bản cho tất cả các nhà nhân quyền, bình đẳng quyền… trên khắp hành tinh này. Hiểu được điều đó, chúng ta, những người con trai, con gái của Đức Phật phải có bổn phận giữ gìn gia tài quý báu ấy, phát nguyện dõng mãnh, tinh tấn tu hành để báo đáp thâm ân Phật Tổ.
Kết luận
Như vậy, truyền thống văn hóa xã hội Ấn Độ phân chia giai cấp mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ được Đức Phật xóa bỏ trên nền tảng giáo lý bình đẳng – vị tha. Ngài chấp nhận cho người nữ xuất gia và đưa ra điều kiện là thọ trì Bát kính pháp suốt đời không có gì là bất bình đẳng. Ngài đã khởi xướng ra cuộc cách mạng giúp cho người nữ có vị trí mà họ đáng được, Ngài là người đầu tiên trong lịch sử tôn giáo nâng giá trị của nữ lên tầm cao nhất trong xã hội.
Nhờ sự hy sinh chấp nhận thọ lãnh Bát kính pháp mà Ni đoàn chúng ta hình thành và tồn tại đến ngày nay. Do đó, chúng ta phải sống và tu học sao cho thích đáng với sự hy sinh cao cả này và hành trì đúng với bổn phận của người xuất gia. Cũng khẳng định rằng, người nữ trong quá trình tu chứng thì quả vị như nhau, cho thấy Đức Phật là con người bình thường nhưng hơn cả con người phi thường. Ngài đã thiết lập nên một xã hội bình đẳng, nhân đạo. Đó là những minh chứng năng lực, trí tuệ và khả năng đạt ngộ, chứng quả Vô lậu của các vị Ni ưu tú.
Ngày nay Ni giới thực hành Bát kính pháp cũng không hề mất đi quyền lợi về mặt tổ chức của giáo hội, và cũng không ảnh hưởng đi sự cung kính cúng dường của Phật tử đối với các vị Tỳ kheo Ni. Bát kính pháp giúp cho người nữ dẹp đi sự kiêu ngạo, cũng là hàng rào ngăn ngừa tham ái liên quan đến phạm hạnh của Tăng Ni. Ni giới chúng ta luôn lấy Bát kính pháp thực hạnh là trên hết vì Bát kính pháp không có gì là quá đáng cả, ngược lại cần phải tôn trọng và hằng biết ơn, vì điều trở ngại lớn nhất cho người thực hành đạo chính là sự kiêu ngạo, chúng ta cần phải noi theo những tấm gương của các bậc đi trước để học hỏi và thực tập một cách hiệu quả nhất.
Phân ban Ni giới tỉnh Bình Dương