“Bầu trời tịch tĩnh mấy chòm sao
Ngộ lý sắc, không, thể lần vào
Nào hay con tạo xoay vần chuyển
Có không, không có, trí tiêu dao.”
Ngồi bên Thầy nghe Thầy kể về việc xuất gia tu học của Sư tổ, chúng con quá cảm kích, quá xúc động. Khi nghe Sư tổ lúc mới ra riêng, để thành lập nơi tu học của chư Ni, trong đó có Thầy chúng con. Ôi! Lúc ấy Sư tổ thực sự quá nghèo nàn, quá thiếu hụt. Thầy trò cơm ăn không đủ no, có khi phải độn thêm khoai, chuối. Đũa không có, phải bẻ chà tre để gắp thức ăn. Thầy trò làm đồ chay để kiếm sống qua ngày. Vì đâu mà Sư tổ cực khổ đến thế? Nhìn đàn đệ tử nheo nhóc, Sư tổ thương xót vô ngần, nhưng ngoài mặt vẫn nở nụ cười để trấn an đàn đệ tử.
“Cảnh chùa vắng, không thiếu mùi đạo vị
Sống thanh bần, trong nếp sống thiền gia
Trời làm mùng, gió trống thổi vào nhà
Nơi cô tịch, tình Thầy trò bảo bọc.”
Nghe Thầy kể, lòng chúng con đau xót, từng giọt lệ thấm ướt bờ mi. Bởi quyết phá lồng Quỷ Táo, nên phải chịu lắm điều thiếu hụt, nhưng lúc nào Người cũng nêu cao tinh thần “Vì đạo quên thân”. Mặc dù thân yếu gầy nhưng vẫn lo đèn sách, đúng với tinh thần “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”. Lo cho thân mình giồi mài Kinh điển, lo cái ăn, cái mặc, sự học hành cho đồ chúng. Sư tổ đã uốn nắn cho Thầy chúng con (Sư bà Huyền Tông) và quý Sư bác, Sư chú, từng con chữ, truyền trao từng ý nghĩa câu kinh.
Dạy từ lớp vỡ lòng 214 bộ đến Giáo Khoa Thư, đến Luật Trường Hàng v.v… Nhờ nơi Sư tổ, đã tận tâm, tận lực, từ sự truyền trao, đến sự hân hoan lãnh thọ của đệ tử, nên năm 1938 Sư tổ mở trường Kỳ nơi chùa Phước Long – Mỹ Tho. Sư Tổ làm Pháp sư còn Thầy chúng con và Sư bác Huyền Cơ làm Giáo thọ Ni. Sư tổ đã đem hết nhiệt huyết của mình, cố mở đường cho Ni lưu hậu học tiếp bước. Sư tổ quyết đứng trên đôi chân nhỏ bé của mình, chứ không chịu lòn cúi… mà quên đi chí nguyện xuất gia ban đầu của mình, muốn ra khỏi trần lao, lìa xa thất tình, lục dục. Thầy chúng con kể lại, có những lúc Thầy trò ngồi nhìn ánh trăng, Sư tổ đem những chuyện đời Sư tổ đã gặp phải, kể cho đệ tử nghe, để phòng thân trên đường tu học. Sư tổ dạy rằng: “Nếu không cùng huyết thống, dầu đó là bậc Thầy trong thiên hạ, nhưng các con cũng chớ nên gần gũi, bởi nghiệp lực nảy sinh lúc nào chúng ta không biết, nhưng khi biết được thì ôi thôi đã muộn, giống như đi trong sương lâu ngày sẽ ướt áo, khi hối hận thì sự việc đã rồi. Như huynh đệ của Thầy (Sư tổ), cô Huệ Tâm là người bạn thân thiết nhất, nhưng không được sống gần Thầy, vì muốn cầu học thêm kinh điển, không ngờ vì việc thương tâm… (không nói ra được), nên đã mượn dòng nước để quyên sinh. Còn và còn rất nhiều, việc đời nó đến với mình muôn hình vạn trạng, có lúc thô thì mình dễ nhận ra, lúc vi tế mình khó lường trước được.”
“Gã si tình thanh niên đầy học thức
Xách va ly, đến gạ gẫm tình yêu
Hương tình yêu, ôi hứa hẹn đủ điều
Không nhẹ dạ chẳng tin, nên thoát nạn.”
Ngày xưa Đức Thế Tôn chế định: “Ni lưu chỉ tùng Tăng cầu thọ Chánh giới” và “Tùng Tăng cầu học Kinh Luật”, chứ có chương nào nói Tăng Ni chung ở. Bởi chư Ni không am tường Giới luật, nên mới tùng Tăng chung ở, do đó thế sự mới nảy sanh. Đức Thế Tôn chế định Giới luật không phải bó buộc cho hàng đệ tử. Một hành giả muốn liễu sanh thoát tử, phải đạt đến tuệ giác vô thượng, không thể hững hờ nơi Giới luật được. Mục đích của Đức Phật có mặt trên đời là “Ứng cơ dữ dược”, tùy theo tâm bịnh của chúng sanh mà cho thuốc. Giáo lý của Ngài vạch ra phương hướng, tìm cho ra nguyên nhân gây khổ đau, để rồi chuyển hóa khổ đau, cuối cùng đưa chúng sanh đến bờ an vui giải thoát. Tất cả Pháp môn phương tiện, đều dựa trên Tam vô lậu học (Giới, Định, Huệ) làm nền tảng, đó là ba môn học căn bản đưa đến Niết-bàn. Nước biển mênh mông vô tận, đều bắt nguồn từ nước trăm sông chảy về biển cả, nước trăm sông mùi vị khác nhau, đục, trong, khác nhau, nhưng khi chảy ra biển đều cùng vị mặn. Giáo pháp của Phật cũng vậy, dù nhiều hệ phái, nhiều Pháp môn khác nhau, nhưng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Ngài không muốn bắt buộc đệ tử phục tùng mệnh lệnh theo Ngài, phải hành trì Giới luật, để củng cố tổ chức của mình, mà Ngài chế ra Giới luật là để ngăn ngừa tội lỗi, từ ý nghĩ đến hành động, ngõ hầu thánh hóa chúng đệ tử, sống đời tịch tĩnh, giữ gìn Giới luật thanh tịnh, làm mô phạm cho chúng sanh. Chỉ có Giới luật mới xây dựng những người xuất gia đầy đủ đức hạnh, để trở thành những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đạo đức. Tuy nhiên, trên lộ trình tu tập, hành giả cần phải tu chứng tâm linh. Người học đạo chỉ thấy Bản tính, tuy lãnh thọ mọi tịnh Giới, mà không ngồi thiền thì Định, Huệ không sanh. Chúng ta do ý thức được con đường sanh tử nên Xuất gia học đạo, trong Kinh Đức Phật nói đến, không ngoài ba môn học: Giới, Định, Huệ. Dùng Giới để ngăn ngừa điều bất thiện, dùng Định để trừ lòng ham muốn và dùng Huệ để trừ mọi ý thức sai lầm do vô minh sai khiến. Dựa vào ba môn học này mà tu hành, thì con đường đi đến Niết-bàn không xa. Còn công năng và lợi ích của Giới là “Phòng phi chỉ ác” tức là ngăn chặn những điều sai quấy và đình chỉ các điều tội ác. Giới là phương pháp giúp cho tâm được thanh tịnh. Đây không phải là những điều răn cấm của thần linh, hay những sự kiêng cữ mê tín, mà đó là một kỷ luật cao đẹp, hướng dẫn chúng ta sống theo đạo đức. Bởi thế, Đức Phật thường dạy: “Tu được một niệm lành, phá được trăm điều ác, cũng như một chút kim cương phá được núi Tu Di, một đốm lửa nhỏ có thể cháy tất cả, hay một xíu thuốc độc cũng có thể giết chết một mạng người”. Kinh Lăng Nghiêm cũng khẳng định: “Giới là gốc rễ Bồ-đề, là nền tảng của Niết-bàn, là chiếc phao nổi vượt qua biển khổ, là chiếc cầu bắc qua đầu bên kia.”
Chính Sư tổ đã y theo Giới luật dạy đệ tử kỹ càng như thế, nên khi Sư tổ mãn duyên Ta bà, trở về thế giới vĩnh hằng vô tung bất diệt, dầu lúc đó hàng đệ tử môn đồ còn rất trẻ, huynh đệ vẫn có thể nương nhau dắt dìu tu học. Vì kính thương Tôn Sư nên cùng nhau hành trì theo lời chỉ dạy của Thầy, làm kim chỉ nam trên đường tiến tu đạo nghiệp. Đệ tử của Sư tổ quý vị đều niên cao lạp trưởng, nhưng vẫn hành trì đúng thanh quy mà Sư tổ đã vạch ra.
Cứ mỗi lần lễ Huý Kỵ của Sư tổ, Thầy chúng con và quý Sư bác, Sư chú, huynh đệ của Thầy, câu hội về dự lễ, thường đem những lời dạy của Sư tổ nhắc lại cho nhau nghe, những kỷ niệm vui buồn của thời thơ ấu và sự trống vắng khi Người ra đi quá sớm:
“Trời Tây một thuở Thầy an trú
Chốn cũ chùa xưa Chúng thẫn thờ.”
Kính lạy Sư tổ, chúng con pháp điệt đời thứ ba, xin mạo muội kính ghi đôi dòng tưởng nhớ về Sư tổ.
TKN. Như Tri – Từ Ân q.10 (ĐSHĐ-103)