Người Việt mình sống trên đất Mỹ, mỗi lần mua một tờ lịch mới cho năm sắp đến thì ai cũng lật xem mùng một Tết rơi vào ngày nào trong tuần. Điều này rất quan trọng vì nếu năm nào Tết trúng nhằm ngày giữa tuần thì kể như khỏi ăn Tết vì ai cũng phải đi làm. Sở làm ở Mỹ, công cũng như tư, họ đâu cho phép người mình nghỉ việc một vài ngày để lo Tết nhất gì đâu.
Năm nay gia đình Khá có vẻ như muốn ăn Tết lớn. Nhưng muốn vậy, phải lo coi ngày trước đã. Cả tháng nay, Khá cứ canh chừng gọi đến Pháp Quang, tiệm bán hình tượng, Kinh sách và lịch Phật ở đối diện thương xá Phước Lộc Thọ để hỏi thăm có lịch mới chưa. Sư cô nói: “Thường thường đầu tháng 12 thì có”.
Thế là ngay ngày thứ Bảy đầu tháng 12, sau khi gọi điện thoại hỏi lại lần nữa cho chắc chắn, Khá bảo con trai chở mình đi mua lịch. Hằng, vợ Khá cũng đi theo để mua thức ăn gần đấy. Cả nhà ba người lên chiếc xe Avalon màu đỏ rượu chát của Khương, chàng nha sĩ tốt nghiệp hơn một năm nay.
Khương là cái đinh để các cô gái ở LosAngeles nhắm vào. Trẻ tuổi, đẹp trai, có bằng cấp, làm ra tiền, đó là tiêu chuẩn của các thiếu nữ nhan sắc, thời thượng, ở thành phố được mệnh danh là “Saigon nhỏ” này. Nhưng hình như chưa ai được Khương chú ý. Chẳng phải anh là người lãnh cảm vô tâm nhưng vì anh vốn chịu ảnh hưởng của cha mẹ, chú trọng quá nhiều vào đời sống nội tâm đạo hạnh lại đặt nặng vấn đề hiếu thảo thành ra chàng và các cô cứ như là hai đường thẳng song song.
Những người ngấp nghé muốn làm sui với vợ chồng Khá cứ tấm tắc khen thầm:
“Sao họ khéo sinh đứa con trai ngon lành đến thế!”
“Thật là tài đức song toàn!”
“Ai được làm dâu nhà ấy tha hồ hưởng phúc lộc. Ông bà ấy tu hành, hay bố thí giúp đỡ, con cháu thừa hưởng bao nhiêu là ân đức!”
Nhưng cũng lắm cô “cua” mãi chẳng được gì lại thầm thì phê phán:
“Con trai gì mà cù lần!”
“Ai lấy anh ta phải làm dâu cả đời.”
Có người chanh chua hơn:
“Tôi dám cam đoan chắc ai không biết tụng Kinh niệm Phật thì khó lọt vào nhà ấy!”
Mặc ai nói gì thì nói, Khương không quan tâm. Chàng tự thấy mình là người may mắn được sinh ra trong một gia đình đạo hạnh. Không những cha mẹ chỉ lo săn sóc, trưởng dưỡng chàng mà còn dạy dỗ chàng phương cách sống thiện hảo, lợi mình lợi người và chỉ bày con đường hướng thượng giải thoát theo giáo lý Phật đà. Nhờ cùng chung lý tưởng với cha mẹ nên Khương không bao giờ cảm thấy cô đơn dù anh là con một và chưa có người yêu.
Từ nhà ra đến phố, thường ngày đi chừng 45 phút nhưng hôm nay mới sáng sớm đã kẹt xe nên cả giờ đồng hồ rồi mà chưa tới đường Bolsa. Phải rồi, tháng này ai cũng lo chuẩn bị mừng Giáng sinh, không những họ đổ xô đi mua sắm mà thôi, lắm người, nhất là các cô các cậu có dịp đi dạo, đem sự trẻ trung, yêu kiều của mình tô điểm cho phố phường thêm khởi sắc.
Khá ngồi trong xe, phóng tầm mắt nhìn ra xa. Hai bên đường đầy những cờ treo, hoa kết. Màu xanh lá cây sậm đi với màu đỏ của bông trạng nguyên và những ngôi sao kim tuyến, những bông tuyết trắng phau là màu sắc và hình ảnh tiêu biểu của mùa lễ lớn này.
Bao giờ cũng vậy, mỗi khi đường phố, tiệm buôn bắt đầu nhộn nhịp, tưng bừng trong không khí và nhạc mừng Noel, Khá bồi hồi nhớ lại kỷ niệm đầu tiên khi gia đình chàng mới định cư tại Mỹ. Mười tám năm rồi còn gì! Hồi đó, Khương chỉ là một cậu bé bảy tuổi, ốm tong teo, nhút nhát và hay khóc; còn vợ chồng Khá tuy còn trẻ nhưng vốn liếng Anh văn thật là ít ỏi.
Nhà thờ Tin Lành bảo lãnh gia đình anh từ đảo Bidong đem về một khu vực ngoại ô của Los Angeles. Họ mướn sẵn cho Khá một chỗ ở tại chung cư Evergreen. Rồi thì mỗi người trong nhà thờ mang đến một món: Từ cái giường, tấm nệm, cho đến nồi niêu chén bát, quần áo, khăn lông, bàn chải… Ông mục sư khệ nệ bưng đến một cái truyền hình cũ nhưng còn tốt và bảo cả nhà hãy cố gắng xem nghe tin tức mỗi ngày, vì đó là cách học Anh ngữ tốt nhất.
Khá không ngờ từ một kẻ tay không ở đảo mới sang mà trong phút chốc, chàng có đủ mọi thứ cần thiết cho một gia đình. Bởi vậy, đối với anh, mùa Giáng sinh ở đây thật ấm tình người. Những ngày đầu tiên trên vùng đất mới, con người có nhiều mặc cảm và bơ vơ, nếu có kẻ giúp đỡ đúng lúc, mình sẽ dễ dàng cảm thông được tình nhân loại. Trái tim của kẻ cho và người nhận cùng mở ra và nhờ đó tình người được truyền đạt một cách giản dị và trực tiếp, không cần qua ngôn ngữ, cũng không bị ngăn ngại vì màu da, địa vị hay tôn giáo. Khá nhận thấy rõ ràng như vậy.
Sự tương trợ này không phải chỉ có giá trị về vật chất, nó là một sự hỗ trợ mạnh mẽ về tinh thần, giúp vợ chồng Khá dẹp bỏ mặc cảm tự ti, cảm thấy phấn chấn, tin tưởng hơn trên bước đường lập nghiệp. Điều ấy thật quý báu vô cùng. Bởi vậy, vợ chồng Khá cùng tự nguyện sau này sẽ vận động lập ra một tổ chức giúp đỡ những người mới định cư, không phân biệt sắc tộc.
Hai năm sau, Khá từ giã những người bạn nhà thờ để dời nhà về đây cho tiện việc đi làm. Bấy giờ, khi đã có xe, hai vợ chồng cùng đi làm chung ở một hãng điện tử và Khương thì dạn dĩ hơn với những người bạn cùng lớp.
Khoảng thời gian 1978 – 1980, người mình vượt biên ồ ạt và tựu về Cali ngày một đông. Trong số những người đồng hương quen biết, vợ chồng Khá kết thân với vợ chồng Nguyên. Bác sĩ Nguyên thuộc hàng trí thức, đã từng đi du học tại Hoa Kỳ nên sang đây có thể hành nghề lại ngay; vợ ông là y tá. Họ mở phòng mạch tại Los Angeles, giúp ích cho người mình không nhỏ. Khá quen Nguyên, nhân một buổi đi khám sức khỏe, bữa đó phòng mạch vắng người nên có dịp nói chuyện lâu và hai người đều vui mừng khi biết họ cùng chung gốc gác ở Cần Thơ.
Vợ chồng Nguyên tánh tình đơn giản, bình dân làm cho vợ chồng Khá không còn mặc cảm khi giao tiếp, lâu dần trở nên thân. Bấy giờ, Khá có dịp bày tỏ ý nguyện giúp đỡ người mới định cư của mình.
Bác sĩ Nguyên nói:
– Tôi tán thành dự tính thiện nguyện của anh nhưng nếu công tác xã hội ấy mà được kết hợp cùng ý hướng phát triển Phật pháp thì lại hay hơn. Người mình lìa bỏ quê cha đất tổ, sống tha hương nơi đất khách, nhiều khi không khỏi cảm thấy bơ vơ. Nếu cùng kêu gọi nhau quy về một hướng, chung lo tu học thì tinh thần của chúng ta sẽ được an ổn hơn. Xưa nay, đạo Phật vẫn gắn liền với quê hương và dân tộc, nay mình quay về nương tựa nơi Tam Bảo chẳng khác nào được sống trong lòng quê hương, lại còn được muôn vàn lợi lạc nhờ giáo lý Phật đà.
Tuyết cũng chung chí hướng với chồng:
– Người mình qua đây được sung túc về vật chất, được sống trong một nước tự do, làm dân một cường quốc mạnh nhất thế giới nhưng thử hỏi lại xem, có ai cảm thấy hạnh phúc hoàn toàn đâu? Ai cũng có vấn đề riêng, ai cũng có nỗi khổ riêng, lắm kẻ còn đòi tự tử nữa. Đức Phật nói “Tâm bình, thế giới bình”, bởi vậy cái tâm mới là phần chủ chốt, nếu mình không biết điều phục cái tâm, có lẽ được lên cõi trời cũng không thấy sướng, huống hồ chi ở Mỹ quốc này?
Vợ chồng Khá nghe vậy càng thêm phấn khởi. Thế là họ cùng hợp sức với vợ chồng bác sĩ Nguyên, bắt đầu vận động thành lập “Hội Phật Học và Tương Tế.”
Thuở ấy, ở đây chưa có hàng quán như bây giờ nhưng thèm phở hay bún riêu, bún bò Huế, bún thịt nướng thì cũng có những chỗ bán chui, bán trong nhà và thực khách đều là người quen biết. Nhờ những nơi này, Khá có dịp gặp gỡ người đồng hương, kêu gọi họ tham gia vận động lập hội.
Phải thành thật nói rằng do tiếng tăm và uy tín của bác sĩ Nguyên và một số Phật tử thuần thành đảm trách, vợ chồng Khá – và cả Khương sau này – dần dần am hiểu Phật pháp, tuy chưa sâu nhưng vững về nền tảng.
Thời còn ở Việt Nam, Khá có ít dịp đi chùa nhưng tối nào anh hoặc vợ cũng thắp nhang bàn Phật. Trước khi ngủ, anh luôn luôn niệm thầm “Nam mô A Di Đà Phật”. Đó là thói quen từ nhỏ.
Anh nhớ thuở còn thơ, mỗi kỳ nghỉ hè đều được về quê ngoại ở làng Rạch Miễu, tỉnh Mỹ Tho. Ban ngày chơi giỡn thì vui đáo để nhưng ban đêm anh rất sợ ma vì vườn cây rậm rạp tối om om, ở chung quanh nhà thỉnh thoảng có tiếng kẽo kẹt như võng đưa, lại thêm những tiếng cắc kè tặc lưỡi, tiếng dừa rụng xa xa nghe phát sợ; vậy mà ác nghiệt thay, nhà vệ sinh lại xây ở sân sau. Bữa nào không nín nổi phải kêu dì út dẫn ra nhưng khi lớn hơn một chút, bị mấy anh em cô cậu, bạn dì chế giễu hoài vì tánh sợ ma của mình nên anh không kêu ai đưa đi và kết quả là cứ “tại chỗ” hoài, ướt lênh láng cả.
Ông ngoại hiểu cớ sự, một hôm dẫn anh đến trước bàn thờ Phật, nói với anh:
“Con thấy không, nhà mình thờ Phật, không ma nào dám vô!”
Anh mếu máo:
“Nhưng ban đêm ma đầy ở ngoài sân, con hổng dám ra ngoài!”
“Nếu con ra ngoài, con cứ niệm Phật, Phật đi theo con, ma không dám xuất hiện đâu. Con tin ngoại đi!”
Rồi ông chỉ hình Phật, nói:
“Đây là Đức Phật A Di Đà, đây là Bồ tát Quán Thế Âm. Con đọc tên Phật lên thì bảo đảm không có ma nào dám phá con.”
Từ khi được “bùa hộ mạng” đó, mỗi khi cần đi ngoài vào ban đêm, Khá niệm Phật liên tục không ngớt, khi trở vào nhà cũng tiếp tục niệm cho đến khi ngủ mới yên chí. Riết rồi thành thói quen. Khá thầm cảm ơn ông ngoại và phục Phật quá, bởi vì từ đó trở đi, anh không còn sợ ma và không bị ai chọc ghẹo vì tánh nhát gan nữa.
Anh tin Phật từ đấy nhưng vốn liếng Phật học của anh chẳng có gì hết. Nếu không nhờ hội Phật học chắc cả đời anh cũng không hiểu được ba chữ Phật, Pháp, Tăng, nói chi là Kinh Nhật tụng, những nghĩa lý về vô thường, khổ, không…
Mấy năm sau, nhờ có quý Tăng Ni ra hải ngoại nên chùa chiền lần lượt mọc lên. Vợ chồng Khá thường dẫn con trai đi chùa vào các kỳ lễ lớn để Khương có dịp kết duyên với Phật pháp. Gia đình anh được nghe quý thầy giảng dạy nhiều điều lợi ích nhưng không vì thế, mà anh bỏ các lớp giáo lý, các buổi pháp thoại tại Trung tâm Phật học cũ vì ở đấy có không khí thân tình cởi mở và bài vở được các cư sĩ soạn thảo công phu.
Nhưng mấy năm gần đây, hội Phật học có sự chuyển biến về khuynh hướng. Người ta thích bàn luận về Thiền, nghiên cứu về Thiền học nhiều hơn là giáo pháp và tụng Kinh. Các cư sĩ trí thức hay nói về nghi tình và thích thú trong việc luận giải các công án! Khá mơ hồ cảm thấy những người bạn đạo của mình đang đi lệch đường và rơi vào tình trạng chấp lý bỏ sự. Nhưng anh không dám góp ý vì luôn luôn anh có mặc cảm là người ít văn hóa lại kém khuyết về kiến thức Phật học so với những đạo hữu ấy.
Gia đình anh âm thầm rút lui ra khỏi nhóm, chỉ còn hợp tác về các công việc xã hội và cứu trợ thôi. Anh nhận thấy tuổi đời đã chồng chất, sức khỏe ngày một kém suy, nếu không quyết tâm chọn một Pháp môn tu và hành trì cho đến nơi đến chốn thì sẽ luống uổng một kiếp người.
Anh muốn chuyên tu Tịnh Độ vì đó là Pháp môn dễ thực hành và có thể trong một đời được giải thoát, nhưng anh chưa có đủ tín giải. Lòng tin của anh đối với pháp tu này, lúc nhỏ, do ông ngoại anh truyền lại và sau này, qua các buổi tụng Kinh A Di Đà cầu siêu mà anh phát khởi lòng ham chuộng cảnh Cực Lạc Tây Phương, chỉ vậy thôi.
Tin mà không hiểu, theo anh, đó chưa phải là chánh tín. Khá chẳng thể phát khởi lòng tin chơn chất như những người dân quê ở làng Rạch Miễu – họ tin tưởng một cách thiết tha về lòng từ bi tiếp độ của Đức Phật A Di Đà nên đem cả thân tâm mà giao phó cho Ngài – vì Khá đã trót đi vào con đường lý giải cả chục năm nay. Nếu sự tu trì mà không kèm theo lý giải thì anh chẳng thể tinh tấn được.
Vì thế, anh phát nguyện dành ra ba năm chuyên tâm nghiên cứu và hành trì pháp tu Tịnh Độ. Từ đó anh ăn chay trường, mỗi sáng dậy sớm lần tràng hạt trước khi đi làm và đêm đêm thì tụng Kinh A Di Đà. Cuối tuần, ngày thứ bảy, nếu không bận các việc xã hội, từ thiện thì cả nhà anh đi chùa. Chùa cách xa hơn hai giờ lái xe nhưng anh không ngại đường xa vì ở đó có vị Sư Trụ trì đang hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ. Anh mượn của thầy khá nhiều sách quý nên ngày Chủ nhật, Khá dành trọn 10 giờ đồng hồ để nghiền ngẫm, đọc kỹ từng trang. Chỗ nào không thông thì ghi xuống chờ dịp hỏi thầy cho thấu đáo. Nhờ có Thầy hết lòng hướng dẫn và nhờ sự quyết tâm của mình, lần lần Khá được chỗ tâm đắc.
Càng thông lý nghĩa, anh càng tin sâu, nguyện thiết và hành trì hết sức nghiêm mật. Cho đến gần đây, như được sự cảm ứng mầu nhiệm từ hồng ân của Đức Từ Phụ A Di Đà, anh biết mình phải làm gì.
Anh bày tỏ cùng vợ ý định muốn tổ chức một ngày pháp thoại với chủ đề “Pháp môn Tịnh Độ” để có cơ hội thức tỉnh các đạo hữu trong hội Phật học vốn là thiện hữu tri thức của anh ngày trước.
Vợ con anh góp ý nên tổ chức vào ngày Tết vì đầu năm ai cũng hoan hỷ và hăng hái. Anh đồng ý. Hằng và Khương lúc sau này trở thành những người bạn đạo, chẳng những đã cùng anh tu học mà còn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức, tư duy…
Khá đang thả hồn về dĩ vãng bỗng nghe Hằng nói gì đó, anh trở về với thực tại, xoay ra sau hỏi vợ:
– Em nói gì anh không nghe?
Hằng lặp lại:
– Em hỏi anh: Bữa nay muốn ăn bánh hỏi với mì căn xào không?
Khương đáp thay cha:
– Dạ con muốn!
Hằng mắng yêu:
– Thằng khỉ! Tao hỏi ba mày mà! Ăn “chay đụng” (đụng gì ăn nấy) như mày thì món nào chẳng được.
Khá cười:
– Thì nó trả lời giùm tôi đó.
Xe lăn bánh, từ từ đưa gia đình Khá vào phố chợ lao xao nhưng giữa cảnh tấp nập “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” Khá vẫn thấy lòng thanh thản, nhẹ nhàng như đóa sen tự soi bóng mình trên mặt hồ êm ả: “Tâm bình, thế giới bình.”
Vợ chồng bác sĩ Nguyên rất vui khi được tin Khá mời tất cả đạo hữu đến họp mặt tại nhà anh vào mùng 2 Tết.
Tuyết nói với chồng:
– Ảnh chỉ mấy năm nay như lui về một góc, không giao tiếp chi với bạn bè; em cứ sợ mình vô tình làm gì phật ý với anh chị ấy.
Nguyên tỏ vẻ hiểu biết:
– Cá nhân mình thì không làm gì anh ấy buồn nhưng có lẽ vì ảnh chọn lối tu riêng nên không lui tới đạo tràng, vậy thôi.
Tuyết chép miệng:
– Tu thì phải đến đạo tràng, phải nhờ thiện hữu tri thức chớ ở nhà tuyên bố “Phật tại tâm” thì bao giờ mới “ngộ” được ông Phật trong tâm, phải không mình?
– Em nói đúng. Nhưng trường hợp của anh Khá thì lại khác. Anh ở nhà tu dữ lắm. Ảnh tu Pháp môn Tịnh Độ. Anh đoán anh ấy có lẽ đã có sở đắc nên muốn gặp các bạn để chia sẻ. Như vậy cũng tốt.
Tuyết cảm thấy phấn khởi:
– Thế thì hay biết mấy! Để em kêu gọi các đạo hữu tham gia cho đông đủ.
Họ cùng đến nhà Khá vào 9 giờ sáng ngày Chủ nhật, mùng 2 Tết, theo lời mời của gia chủ, với một ít hoa quả, bánh mứt. Vợ chồng Khá đón khách từ ngoài sân, nét mặt hân hoan rạng rỡ. Tết năm nay không lạnh lắm nên hoa hồng và hoa thược dược nở đầy trước sân, khoe sắc màu tươi thắm trong nắng ấm vàng tươi.
Bên trong, phòng khách đã được dọn trống, ghế ngồi kê quanh tường. Hai chục cái ghế cũng vừa đủ cho khách và chủ. Trong lúc Khá và con trai lo tiếp khách, Hằng nhận hoa và trái cây, trân trọng đặt lên bàn thờ Phật rồi bưng nước mời mọi người.
Sau những câu chúc tụng xã giao ngày đầu năm, Khá từ từ đứng lên, anh nói giọng hơi run run vì cảm xúc:
– Tôi thành thật cảm ơn các đạo hữu đã đến đây thật đông đủ, điều đó nói lên đạo tình của chúng ta vốn rất thâm sâu và vững bền. Cũng vì đạo tình ấy, tôi mời quý bạn đến đây để cùng trao đổi và góp ý về Pháp môn Tịnh Độ mà gia đình tôi đang tu tập. Những câu hỏi, cho đến những chất vấn của các đạo hữu sẽ giúp chúng tôi có dịp nghiệm xét kỹ hơn về Pháp môn này.
Bác sĩ Nguyên thoải mái đề nghị:
– Tôi nghĩ chúng ta nên tạo không khí vui vẻ tự nhiên cho buổi pháp thoại này thì hay hơn vì như thế ai cũng có thể dễ dàng góp ý, nhất là những cô cậu sinh viên Phật tử sẽ không ngại ngùng vì câu “kính lão đắc thọ.”
Nhóm trẻ hoan nghênh, vỗ tay cười. Khá cũng bớt hồi hộp, anh ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng.
Tuyết nóng lòng hỏi ngay:
– Xin anh cho biết vì lý do nào anh tin tưởng vào Pháp môn Tịnh Độ?
– Tôi có duyên với Pháp môn này từ nhỏ. Tôi nói sự thật này ra, ai muốn cười thì cười nghe. Hồi nhỏ tôi sợ ma lắm, mà mỗi kỳ nghỉ hè đều thích về quê ngoại để cùng với mấy người con của dì, cậu tôi bơi xuồng, trèo cây hái trái, chơi nhà chòi, hưởng thú nhà quê. Ban ngày vui đáo để nhưng hễ tối xuống là tôi sợ lắm, vì nhà quê không có điện mà bóng tối lại dày đặc trong các lùm cây. Thêm tiếng cóc nhái, ễnh ương kêu inh ỏi quanh nhà… Thấy tôi sợ hãi thái hóa, ông ngoại tôi dạy tôi niệm Phật. Mỗi khi niệm Phật, tôi thấy lòng không còn sợ hãi. Hơn thế nữa, khi ra đời, gặp những chuyện phiền não khó nhẫn, tôi liền khởi câu niệm Phật thì tự nhiên được an ổn. Về sau, tôi lại được chứng kiến cái chết êm thấm, tươi tỉnh của ông ngoại tôi, của cậu tôi và được nghe kể về một số trường hợp vãng sanh của người trong làng Rạch Miễu, kẻ thì biết trước ngày chết, người ngồi chắp tay niệm Phật mà đi, người thì tự sắp đặt mọi chuyện hậu sự, từ giã bà con lối xóm rồi nhắm mắt như ngủ, đi êm ru lúc nào không hay… Nhiều lắm! Quê ngoại tôi thuở ấy chưa có chùa, vậy mà người này dạy người kia niệm Phật rồi được Phật rước cả… Tôi tự xét mình tuổi ngày càng lớn, phải lo tu gấp nên quyết định niệm Phật cầu về Tây Phương. Tu theo những Pháp môn khác, tôi e rằng không đủ sức vì tự biết mình nghiệp chướng sâu dày, nếu chỉ dùng tự lực chắc chắn không đảm đương nổi, phải nương nhờ Phật lực mới mong một đời liễu sanh thoát tử.
Diệu Nga (ĐSHĐ-057)