Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) rất coi trọng đạo làm thầy. Vào năm Nhâm Thìn (1472), trong kỳ thi Đình, nhà vua nêu vấn đề này cho các sĩ tử giải đáp.
“Trẫm lo cho Nho thuật chưa thịnh đạt nên chú trọng việc tuyển chọn học trò vào Quốc tử giám để nêu khuôn phép, kính trọng học quan, nhằm tạo dựng khuôn mẫu. Sách xưa có câu: “Thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính”. Nhưng hiện tại nho sinh lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may, hoặc qua tuần, qua tháng lại đổi thầy. Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa. Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được?”.
Nho sinh Vũ Kiệt đã mạnh dạn trình bày:
– Thần nghe: Cái học ngày xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tồn nghi trong sách vở. Các ngành, các nghề ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể không có thấy được, huống hồ người theo học đạo Nho. Bệ hạ thường lo nghĩ Nho thuật không xem trọng thì giáo hóa không được sáng sủa, nhân tài không phát triển, không lấy gì là làm chỗ dựa cho cương thường, dẫn dắt theo nguyên khí của quốc gia. Ngoài ra, còn kính trọng học quan và việc nêu khuôn mẫu của người thầy lại càng trọng hơn.
Là kẻ sĩ phải thấy rằng mình được vinh hạnh càng chăm lo việc thực học. Trong lúc chưa thành đạt thì sống theo đạo lý thông thường để chờ thời gặp mệnh, không để mất phẩm chất riêng của mình. Lúc đã được tin dùng thì phải giữ đúng danh vị và làm việc thực sự, không thể để mất đi cái điều mà mình hằng mong muốn, như thế mới có thể được… Không thể không có những con người ngồi đúng chỗ, dung mạo đoan trang, sáng rõ nghĩa lý sách vở, tu chỉnh nết na… Tất cả đều bởi cái đạo làm thầy được đứng vững nên người tốt được nhìn ra.(*)
Nhưng Vũ Kiệt cũng nêu lên những tồn tại của giáo dục lúc bấy giờ, đó là cả thầy lẫn trò cần phải chấn chỉnh theo đúng chuẩn mực đạo đức của dân tộc. Ông đã nêu:
– Nhưng điều muốn nói là: khá nhiều người làm thầy, tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà người học trò cần có là sự uyên bác, nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô thiển… Đạo làm thầy không vững vàng như thế thì còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ trong việc đi học. Sự trình bày của họ chẳng qua là sự rườm rà theo cách nói vẽ vời, sách vở chứa đầy trên áng nhưng phần nhiều là hình trạng của gió mây… Cho nên, Tâm thuật đã mất trước khi ra làm quan rồi, thì sau khi ra làm quan còn tìm sao được cái tiết tháo và phong độ của họ… Cái thói quen bị kẻ sĩ buông trôi theo dòng lệ tục như thế thì còn gì khi họ đạt được danh vị ở triều đình, nên ít người thuận theo lễ nghĩa.(*)
Để khắc phục những mặt yếu nói trên, Vũ Kiệt thưa trình:
– Thần xin bệ hạ thực thi: Đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải được nghiêm nghị đúng hướng. Tìm nhân tài trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa. Nếu như dùng lời gian dối để trau chuốt thì dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng thì có thể thu nhận. Khoa mục tuy có thể trọng dụng, nhưng dựa vào cái danh tiến sĩ mà phụ họa theo kẻ xấu, nhiều mánh lới thì bỏ hẳn. Nho thuật tuy có dùng, nhưng tự phụ cho rằng mình đã học hết sách vở, dùng văn học để đưa nước đến chỗ sai lầm thì trừ đuổi không thể gần gũi họ được.
Thần mong bệ hạ tuyển chọn người công minh, trong sạch và ngay thẳng lấy danh vị trao cho họ trọng trách.(*)
Những ý kiến đề xuất nói trên của Vũ Kiệt đã góp phần quan trọng giúp triều đình thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức chấn chỉnh có hiệu quả nền giáo dục của nước nhà lúc bấy giờ. Trong kỳ thi Đình năm ấy Vũ Kiệt đã đậu Trạng nguyên (tức đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh). Năm đó ông vừa tròn 20 tuổi. Ông quê ở xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc xưa, nay là làng Cửu Yên, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trạng nguyên Vũ Kiệt được triều đình bổ nhiệm làm Hàn lâm Thị thư. Sau ông lại được vua Lê Thánh Tông thăng làm Tả Thị lang kiêm Đông Các hiệu thư.
Mai Chi (ĐSHĐ-134)
- Những phần này đều trích trong Văn hiến Kinh Bắc, do Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh xuất bản năm 1998, trang 119-121, trong bài Văn sách thi Đình của Trạng nguyên Vũ Kiệt.