Sự thành lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni là lời giải thích rõ ràng cụ thể nhất về tinh thần bình đẳng của đức Phật “bốn tánh xuất gia, cùng một họ Thích”. Vì thế, điều này không những có ý nghĩa đặc thù trong lịch sử Phật giáo, mà còn có giá trị lớn lao đối với lịch sử tôn giáo trên toàn thế giới, lịch sử văn minh của nhân loại. Các vị Tỳ-kheo-ni ưu tú trong giáo đoàn, hoặc là dùng tướng lưỡi dài rộng tuyên thuyết diệu đế, hoặc miệt mài viết sách, trước tác, hoằng pháp lợi sanh, hoặc là từ bi tế độ cứu vớt những người đang trầm luân, hoặc xây dựng chùa chiền tiếp chúng độ sanh, khiến cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của Phật giáo càng tăng thêm điều vẻ vang, không gì sánh được.
Sau khi Đức Phật thành đạo năm thứ 5, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) an tường xả báo vãng sanh, phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāpajāpati gotamī) đã hướng dẫn phi tần cung nữ 500 vị đến rừng cây Ni Câu Đà (Nirodha) yết kiến Đức Phật. Nhiều lần thỉnh cầu Đức Phật cho phép xuất gia, lại được A Nan bên cạnh giúp đỡ thỉnh cầu, lấy lý do Ni chúng cũng có thể chứng đắc Thánh quả như nam giới, cầu thỉnh Đức Phật hứa khả. Đức Phật cuối cùng đồng ý, nữ chúng vì thế được xuất gia, giáo đoàn Tỳ-kheo-ni do đó được thành lập.
Sau khi phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề xuất gia, gọi là Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo, ngài và 500 vị Ni chúng nhanh chóng chứng đắc được đạo quả. Với bản tánh từ bi, nhu hoà, ngài đã hướng dẫn Ni chúng nhiệt tâm làm các việc phụng sự xã hội cùng các công tác chẩn tế. Giáo dục nhi đồng học Phật, khuyên bảo hướng dẫn phụ nữ Quy y, đẩy mạnh gia đình Phật hoá, khiến cho sự phát triển của Phật giáo được thâm nhập vào xã hội nữ tánh, dẫn đến nếp sống thiện lành trong xã hội.
Tăng đoàn Tỳ-kheo-ni do ngài Đại Ái Đạo lãnh đạo, phù hợp với lời giáo giới của Đức Phật, các ngài y chỉ các vị Tỳ-kheo-thọ giới. Mỗi nửa tháng cử hành Bố-tát, sám hối những lỗi lầm. Các ngài không luận nghị thị phi trong Tăng đoàn, không vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, cũng không lạm thâu đồ chúng, hoặc tùy tiện hóa duyên ứng cúng. Ngài Đại Ái Đạo suốt đời vì Phật giáo phụng hiến nỗ lực, Đức Phật vì thế đã từng ở trong Tăng đoàn tán thán ngài Đại Ái Đạo rằng: “Này các thầy Tỳ-kheo! Tỳ- kheo-ni Đại Ái Đạo đã bỏ đi những tập khí của nữ nhân, là vị trưởng phu có đạo đức. Thánh đức mỹ hạnh của Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo xứng đáng làm tấm gương cho đại chúng Tăng đoàn!”.
Trong nhiều Kinh, Luật, Luận như Tạp A Hàm kinh, Tăng Nhất A Hàm kinh, Luật bộ, đều ghi chép rõ thời đại Đức Phật. Tình hình hoạt động tích cực, năng nổ của giáo đoàn Tỳ-kheo-ni cùng với phong thái siêu phàm trong công tác Phật sự hoằng pháp hộ giáo của các ngài.
Trong Phật Thuyết A-la-hán Cụ Đức Kinh có ghi chép 15 vị đại Thanh Văn Tỳ-kheo-ni chúng, như: ngài Đại Ái Đạo pháp lạp đệ nhất, có uy đức thống nhiếp đại chúng; ngài Kế Ma (Khemā) trí huệ đệ nhất, biện tài vô ngại; ngài Liên Hoa Sắc (Uppalavannā) thần thông đệ nhất; ngài Ba Sắc Già La đầu đà đệ nhất; ngài Tô Ma thiên nhãn đệ nhất; ngài Thâu Bà Yết Lý Ma La đa văn đệ nhất; ngài Ngật Lý Xả trì giới đệ nhất; ngài Đạt Ma Đề Na (Dhammadinnā) thuyết pháp đệ nhất; ngài Da Du Đà La (Yasodhara) phước đức đệ nhất.
Những kinh điển khác còn ghi chép như ngài Sách Na tinh tấn đệ nhất, ngài Diệu Hiền túc mệnh đệ nhất, ngài Chi Già La Ma Đa tín tâm đệ nhất, ngài Nan Đà (Nandā) thiền định đệ nhất, ngài Ưu Ba Tiên Na giải không đệ nhất, ngài Bạc Trát Giai Lạp từ tế đệ nhất, ngài Ma Nỗ Ha Lợi giáo hóa đệ nhất.
Trưởng Lão Ni Kệ (Theri-gàthà) của Phật giáo Nam truyền có thu thập các bài thi kệ của 73 vị A-la-hán Ni đã chứng quả cùng với đạo hạnh, hành trạng của quý ngài, trong đó hoàng hậu phi tần của dòng vua chúa Sát Đế Lợi 24 vị, nữ Bà La Môn 15 vị, nữ phú thương 20 vị, kỹ nữ 4 vị, nữ nông dân nô lệ 10 vị, như công chúa Nan Đà, Tinh Đà, Mai Đà dòng tộc Thích Ca; hoàng hậu Ô Tỷ Lý của vương quốc Kiều Tát La, ba người em gái của ngài Xá Lợi Phất là Giai Lạp (Càlà), Ô Bạc Giai Lạp (Upacàlà), Tất Tô Bạc Giai Lạp (Sìsùpacàlà)… Nhất là tiểu công chúa Tái Lạp (Sielà) của nước A Lạp Ốc Ca (Alavaka),vừa mới bảy tuổi nghe pháp, xuất gia. Bảy ngày sau chứng quả A- la-hán, Đức Phật đặc cách truyền cho giới Tỳ-kheo-ni. Đức Phật đều khai thị giáo pháp quyền xảo phương tiện làm cho lợi lạc tất cả chúng sanh như vậy.
Trong thời đại vua A Dục (Asoka), vua hiền trị nước, đại pháp hoằng truyền khắp các nước, trong vương tộc rất nhiều người xuất gia, như vương đệ Duy Tha Tô Ca, vương tử Ma Sấn Đà (Mahinda), công chúa Tăng Già Mật Đa (Sanghamitta), cùng với người cháu ngoại Tu Ma Na v.v… Vương tử Ma Sấn Đà được lệnh của vua A Dục đã hướng dẫn 4 vị Tỳ-kheo Thượng tọa cùng với sa di Tu Ma Na đến đảo Lăng Già hoằng pháp, đã được sự hoan nghênh của vua Thiên Ái Đế Tu (Devanampiya Tissa) Sau đó, vì hoàng hậu A Nỗ Lạp (Anula), muốn xuất gia, vua bèn phái sứ thần A Lật Tra (Arittha) bèn đến thành Hoa Thị thỉnh vua A Dục phái Ni Thượng tọa đến để hiệp trợ, Tăng Già Mật Đa bèn hướng dẫn 11 vị Tỳ-kheo-ni Thượng toạ, cùng với nhánh cây Bồ đề do vua A Dục cúng dường đến đảo Lăng Già. Hoàng hậu A Nỗ Lạp đã cùng với 500 nữ quyến xuất gia thọ Tỳ-kheo ni giới, vua đã xây dựng Tượng Trang Tự các vị Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo-ni ở nước Lăng Già đã phát huy sức ảnh hưởng giáo đoàn của mình, đối với việc hoằng pháp giáo hóa đã có nhiều thành tích đóng góp. Sự thành tựu tu hành cùng với trí tuệ trác việt của các vị Tỳ-kheo-ni đã được thế nhân kính ngưỡng.
Cây Bồ Đề quốc bảo ở tại nước Sri Lanka đã được hơn 2000 năm, đến nay cành lá vẫn xum xuê tốt tươi mà giáo đoàn Tỳ-kheo-ni lại vì giáo nạn năm 1017 TL, đến nay chưa thể khôi phục. Thế kỷ XIX, tuy có 10 giới nữ Tô Đạt Ma Gia Lợi, nỗ lực phấn đấu nhưng vẫn gặp rất nhiều trở lực. Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni Trung Quốc bắt đầu thành lập từ thời Đông Tấn. Vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên là ngài Tịnh Kiểm đã y chỉ ngài Trí Sơn thế độ, và cầu thọ 10 giới. Khoảng hơn 40 năm sau, ngài Đàm Ma Ca La đã ở trên thuyền trên dòng sông Tứ, kiến lập giới đàn Tỳ-kheo-ni, ngài Tịnh Kiểm cùng với 23 người cùng thọ Cụ Túc giới trong giới đàn này. Ni giáo đoàn do ngài Tịnh Kiểm lãnh đạo đã an cư ở Trúc Lâm tự, cửa Tây cung thành Lạc Dương, và với công hạnh “giáo dưỡng đồ chúng, thanh nhã, khí tiết, thuyết pháp giáo hoá, làm cho Phật giáo thạnh hành”, đã được người đời kính trọng, và cũng khiến cho Phật giáo ở thời Tấn càng thêm lưu truyền rộng rãi.
Trải qua các triều đại sau đó, từ Lưỡng Tấn, cho tới Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, cho đến ngày hôm nay, hoàng hậu, phi nữ, công chúa, các giai tầng quý tộc hoặc là dòng dõi Nho học, gia đình quyền quý phát tâm xuất gia rất đông, trong đó nhân tài kiệt xuất rất nhiều. Đó là do Phật pháp hoằng truyền Đông Thổ đã được vua chúa hộ trì, ủng hộ. Thời kỳ Lưỡng Tấn, trong khoảng thời gian hơn 70 năm, giáo đoàn Ni chúng mới thành lập trong thời kỳ đầu, do các vị danh Ni nổi tiếng như ngài Đàm Bị, Trí Hiền, Huệ Trạm, Chi Diệu Âm v.v…, các ngài được các vị đế vương đương thời sùng kính. Thời gian 150 năm thời Nam Bắc triều, giáo đoàn Tỳ-kheo-ni phát triển nhanh chóng, am xá giảng đường nhỏ có thể chứa 100 người, lớn thì có thể dung chứa hơn 1000 người. Nhiều đạo tràng được quốc vương, quan lớn ủng hộ, hộ trì; danh Ni xuất hiện rất nhiều.
Từ đời Tùy Đường cho tới đời Tống, Phật pháp dần dần phổ biến ở các giai cấp tầng lớp tri thức. Các vị Tỳ-kheo-ni với kiến giải siêu việt hoặc khí tiết kỳ đặc càng được thấy ghi chép rộng rãi ở trong kinh truyện. Ví như thời Đông Tấn, ngài An Linh thủ lãnh chúng đệ nhất; thời Lục Triều ngài Pháp Tuyên hoằng pháp chấn động cả Triết Đông, đời Tuỳ ngài Trí Tiên dự tri Dương Kiên sẽ là đại đế khai quốc, đời Đường có ngài Trí Thủ đã qua nước Nhật để hoằng truyền giới luật; ngài Pháp Trừng dịch kinh truyền muôn đời, ngài Vô Tận Tạng dự tri Huệ Năng sẽ trở thành bậc Long Tượng; ngài Như Nguyện là đại sư về thiền và luật; thời Tống có ngài Pháp Trân chặt cánh tay để kêu gọi khắc in Đại Tạng Kinh; đời Nguyên có ngài Chân Tịnh làm thầy của hoàng hậu, đời Thanh có Vô Vi Tiêu Sơn Ni trị bệnh cho dân chúng, “tuỳ vật lấy cho, sắc uống tức bớt bệnh”; lại có Truyền Huệ sáng lập Niêm Hoa Xã, là tùng lâm của nữ chúng thiền tông, đã đẩy mạnh phong trào tham thiền của Tỳ kheo ni vùng Giang Nam…
Cuối đời Thanh đầu đời Dân Quốc, do vì chiến loạn liên tiếp, Phật pháp truyền thừa cơ hồ bị suy tàn, may có các vị cao Tăng đại đức lần lượt đến Đài Loan, lại có sự khai triển kỳ tích của Phật giáo Đài Loan. Cho đến thời cận đại, giáo đoàn Tỳ-kheo-ni Đài Loan đã trở thành quán quân của thế giới, hoằng hóa toàn cầu, đã mở ra tiên phong thế kỷ, đã có sự siêu việt hơn các triều đại trước. Từ ngày 15 đến 23/ 2/1998, Phật Quang Sơn tại Bồ Đề Già Da ở Ấn Độ cử hành Tam Đàn Đại giới quốc tế. Có hơn 100 vị nữ chúng đến từ 23 quốc gia trên thế giới để cầu thọ cụ túc đại giới Tỳ-kheo ni. Trong đó Sri Lanka có 40 vị kiệt xuất nữ thanh niên đến để cầu giới. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Phật giáo thế giới đoàn kết tại nơi Đức Phật thành đạo, đã cùng nhau viết lên trang lịch sử huy hoàng siêu việt thế kỷ.
Về phương diện Trung Quốc, hiện đại Tỳ-kheo-ni nổi tiếng rất đông, như Đại Lục Trung Quốc có Tỳ-kheo-ni Thông Nguyện, tốt nghiệp đại học Bắc Kinh, xuất gia hoằng dương giới luật; Tỳ-kheo-ni Hoằng Định một đời khổ hạnh đầu đà, sau khi viên tịch, xá lợi to như trái cà na. Ở Đài Loan có Tỳ-kheo-ni Diệu Nhiên, Viên Dung, đã làm Hòa thượng truyền tam đàn đại giới, Tỳ-kheo ni Như Học xây dựng tự viện, sáng lập Phật học viện. Tỳ-kheo-ni Từ Trang vì Phật giáo Trung Quốc khai sáng con đường quốc tế hóa, ở nhiều nước trên thế giới đã xây dựng tự viện. Tỳ-kheo-ni Từ Huệ gánh vác trách nhiệm giáo dục văn hóa, sáng lập 4 trường đại học như Tây Lai, Phật Quang…; Tỳ-kheo-ni Từ Dung nhiệt tâm về sự nghiệp từ thiện, sở trường về tổ chức hoạt động, phụ trách Ủy ban Phát triển Quốc tế Phật Quang hội, thành lập hơn 100 hiệp hội Phật Quang ở các nước trên thế giới.
Tỳ-kheo-ni Từ Di chủ biên Phật Quang Đại tự điển; Tỳ-kheo-ni Hiểu Vân là người sáng lập ra đại học Hoa Phạm; tiến sĩ Y Pháp giảng dạy ở đại học Gia Lỗ, trường đại học Bá Khắc Lai; tiến sĩ Đạt Hòa, đại học Câu Trạch Nhật Bổn; tiến sĩ Y Không, đại học Sư phạm Đài Loan; tiến sĩ Y Dục, đại học Ái Tri Nhật Bổn; tiến sĩ Diệu Tịnh, đại học Ca Luân Tỷ Á; Tỳ-kheo-ni Ngộ Nhân sáng lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni Hương Quang. Tỳ-kheo-ni Chứng Nghiêm sáng lập Từ Tế Công Đức hội. Tỳ-kheo-ni Chiếu Huệ với nhiệt tâm hộ pháp vệ giáo v.v…Ở trên, là đại diện các vị Tỳ- kheo ni thạc học có tài, có đức. Ngoài ra, các vị Tỳ-kheo-ni Phật Quang Sơn đã đem hết sức mình phục vụ đẩy mạnh công tác văn hóa. Như việc biên soạn Phật Quang Đại Tạng Kinh, đã trải qua hơn 10 năm âm thầm gian nan, cực khổ, không cầu danh vọng tiếng tăm, đối với việc hoằng dương lưu truyền văn hóa Phật giáo đã mở ra một trang sử mới.
Ngoài ra, Ni chúng kiệt xuất hiện đại của các nước trên thế giới như: Ở Tây Tạng có Đa Cát Phi Cách Ma, trụ trì Nam Nữ nhị bộ Tăng đoàn, địa vị chỉ thấp hơn ngài Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền; ở Thái Lan có tám giới nữ Chiêm Khổng Na Ung, đệ tử kế thừa pháp của pháp sư Mông Côn Thiếp Mâu Ni chùa Pháp Thân, đã giáo dưỡng Thang Mã Sai Ưu là trụ trì chùa Pháp Thân; Sri Lanka có Tô Đạt Ma Ca Lợi, được tôn là “Quang vinh nữ tánh ở Sri Lanka”. Tân Gia Ba (Singapore) có Quảng Bình là người khai sáng Phật học viện Nữ Tử, Phi Luật Tân (Philippines) có Quảng Nhân đã sáng lập Phòng khám bệnh từ thiện đầu tiên để giúp đỡ cho hàng vạn bệnh nhân; ở Hàn Quốc có Quang Vũ, Trưởng Ban Giáo dục Hội Tỳ-kheo-ni toàn quốc; ở Gia Nã Đại (Canada) có Đỗ Đăng Trác Long (Thubten Chodron) hoằng pháp ở Mỹ và Gia Nã Đại; ở nước Mỹ có Ca Mã Lặc Tây Trác Ma (Karma Lekshe Tsomo) là người đã sáng lập Hội Phụ nữ Phật giáo Quốc tế; nước Đức có A Nhã Khắc Mã (Ayakema) ở Châu Âu hoằng dương về thiền.
Ở Việt Nam, từ đầu thế kỷ thứ I, triều đại Hai Bà Trưng (40 – 43) có nhiều nữ chúng thuộc dòng dõi vua chúa, hoặc là các nữ danh tướng như: Bát Nàn, Chiêu Dung, Thiều Hoa, Vĩnh Huy, Phương Dung, Hương Thảo, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ…, sau khi tham gia vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho nước nhà, đã vào chùa xuất gia tu học. Vào thời Lý Thánh Tông, có thiền sư Diệu Nhân (1042-1113) thuộc dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thế hệ thứ 17. Thế kỷ XX, nhiều bậc trưởng lão của Ni giới Việt Nam đã có nhiều công lao đóng góp cho sự chấn hưng phong trào tu học của nữ giới như Ni bộ Bắc tông có Ni sư Diệu Ngọc (1885-1952), Ni sư Diệu Tịnh (1910-1942), Ni trưởng Như Thanh (1911-1999), Ni trưởng Diệu Không (1905-1997), Ni trưởng Trí Hải (1938-2003) v.v…
Ni giới Khất sĩ có Ni trưởng Huỳnh Liên (1923-1987), Ni trưởng Bạch Liên (1924-1996) là người sáng lập ra Giáo hội Khất sĩ Ni giới Việt Nam (nay là Ni giới Hệ phái Khất sĩ) đã đóng góp rất nhiều công sức trong sự nghiệp thống nhất đất nước, giải phóng dân tộc, công tác từ thiện xã hội và hoằng dương chánh pháp, đào tạo Ni chúng… Hiện nay, hơn 50 Tỳ-kheo-ni tốt nghiệp tiến sĩ, thạc sĩ tại các trường đại học trên thế giới, đang đảm nhiệm các chức vụ trong ban, ngành Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; trước tác, dịch thuật, giảng dạy tại các Học viện Phật giáo, Trường Cao trung Phật học…
Ni chúng Phật giáo Việt Nam dấn thân vào các công tác giáo dục, hoằng pháp từ thiện…, và đã có nhiều thành quả lớn lao được mọi người đánh giá rất cao. Giáo đoàn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni giống như chim có hai cánh, như người có hai chân, nếu thiếu một thì không thể được. Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni vốn cách đây 2600 năm do chính Đức Phật tổ chức thành lập, truyền thừa cho đến ngày hôm nay. Mạng mạch Phật pháp lưu truyền khắp nơi trên thế giới, Ni chúng kiệt xuất xuất hiện rất nhiều, hoặc an phận, âm thầm cực khổ lợi sanh, hoặc đảm nhiệm gánh nặng hoằng pháp gian nan; so với Tăng chúng, thì các vị Tỳ-kheo-ni đều có những đặc trường riêng của mình. Đối diện với thế kỷ XXI hôm nay, Phật giáo hướng về nhân gian, Phật pháp và cuộc sống có sự quan hệ mật thiết không thể tách rời, chính là thời đại Phật giáo động viên đoàn kết, không những giới Phật giáo các nước cần phải sớm tiến một bước hợp tác, mà càng nên nhanh chóng kiến lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo có tánh thế giới. Đồng thời giáo đoàn hai chúng nam nữ của các nước cần phải nỗ lực cần cầu kiện toàn viên mãn. Tứ chúng cùng nhau chung sức hợp tác, cùng nhau thúc đẩy hòa bình thế giới, khiến cho toàn nhân loại đều được sự lợi ích của Phật pháp, cùng nhau sáng tạo cuộc sống an lạc, hạnh phúc, cùng đạt đến cảnh thế giới hòa hợp, bình đẳng.
Đại sư Tinh Vân
Thích Tuệ Liên (dịch) (ĐSHĐ–008)