Vườn thiền nảy sanh nhiều hoa lá, đủ sắc màu đủ cung bậc, biết bao hành trạng và dấu tích của người xưa, khi chúng ta đã là người dân gốc Việt tu đạo, thì không thể không biết đến Tổ tông của mình, Thiền sư Chân Nguyên, một trong những vị Thiền sư nổi danh của Việt Nam, tác phẩm Thiền Tịch Phú cũng là một trong những tác phẩm rất đặc sắc của Ngài. Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu tác phẩm chữ Nôm này, để góp những tinh túy ở lời dạy của chư Tổ mà ứng dụng trong đời sống tu hành thì lợi lạc biết bao!
Trước khi đi vào nội dung của Thiền Tịch Phú, chúng ta biết gì về Thiền sư Chân Nguyên? Từ thuở bé, Ngài có nhiều kỳ đặc, mẹ Ngài nằm mộng thấy cụ già cho một hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đây biết mình có mang. Ngài rất thông minh, hạ bút là thành văn, Năm 16 tuổi, Ngài đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đọc đến Tổ thứ ba là Huyền Quang, Ngài liền tỉnh ngộ và nói: “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống ta là một chú học trò.” (Tổ Huyền Quang từng làm Trạng nguyên mà bỏ đi tu) Thiền sư Chân Nguyên lúc đó liền phát nguyện xuất gia. Năm 19 tuổi, Ngài được Thiền sư Tuệ Nguyệt cạo tóc, đặt Pháp danh là Tuệ Đăng. Sau khi Thầy tịch, Ngài tu theo Thiền sư Minh Lương, được cho Pháp hiệu là Chân Nguyên. Về sau, Ngài được truyền thừa y bát của Thiền phái Trúc Lâm, làm Trụ trì chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm, là hai ngôi chùa lớn thuộc Thiền phái Trúc Lâm. Đến năm 1726, Ngài triệu tập đệ tử dặn dò và nói kệ truyền pháp. Kệ rằng:
Hiển hách phân minh thập nhị thì,
Thử chi tự tính nhậm thi vi.
Lục căn vận dụng chân thường kiến,
Vạn pháp tung hoành chính biến tri.
Nghĩa:
Bày hiện rõ ràng được suốt ngày,
Đây là tự tính mặc phô bày.
Chân thường ứng dụng sáu căn thấy,
Muôn pháp dọc ngang giác ngộ ngay.
Nói kệ xong, Ngài bảo chúng: “Ta đã 80 tuổi, sắp về cõi Phật.” Đến tháng 10, Ngài nhuốm bệnh. Sáng ngày 28, Ngài viên tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ làm lễ hỏa táng thu xá lợi chia thờ hai tháp ở chùa Quỳnh Lâm và chùa Long Động, tháp hiệu Tịch Quang. Ngài là người khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm.
Thiền sư Chân Nguyên có rất nhiều tác phẩm để lại cho đời, Thiền Tịch Phú bằng văn phạm chữ Nôm, cũng là một trong những tác phẩm đặc sắc:
禪 寂 賦
真 源 禪 師
𢝙 𠊝 修 道 釋
𢝙 𠊝 修 道 釋.
Mở đầu tác phẩm là câu:
Vui thay tu đạo Thích
Vui thay tu đạo Thích.
Đó là kết quả của sự tu hành, một niềm vui tịch tĩnh vắng lặng khi mỗi chúng ta đã trở về với tâm Phật hằng hữu nơi chính mình. Vui này không phải vui để rồi buồn, buồn để rồi vui, vượt ngoài đối đãi. Đạo Thích là đạo Phật, mà Phật là giác ngộ sáng suốt, nhìn vạn vật đúng như bản chất thật của nó, không lầm nhận, không chấp thủ… được như vậy chúng ta sẽ bớt khổ, trở về với cái chân thật thì tự tại an vui thôi. Nếu là người biết tu thì nơi nào cũng tu được, không cần phải lựa chọn chốn thành đô hay núi rừng vắng vẻ, chỗ nào cũng là phước đức chỗ nào cũng có thể tĩnh lặng, như ngài đã nói:
路 沛 城 都
芾 泥 泉 石
油 𡎢 尼 景 致 名 籃
或 於 准 廚 廛 古 跡
兜 拱 𣳔 福 德 莊 嚴
低 拱 本 修 功 禪 寂.
Lọ phải thành đô
Nào nề tuyền thạch
Dù ngồi nơi cảnh trí danh lam
Hoặc ở chốn chùa chiền cổ tích
Đâu cũng dòng phúc đức trang nghiêm
Đây cũng vốn tu công thiền tịch.
Kế đến Thiền sư miêu tả cảnh trí của những ngôi chùa xưa:
𠠩 案 前, 等 經 𠀧 幅, 素 坎 瑪 瑙 𤥭 渠
𨕭 上 殿, 聖 像 汆 座, 𦘧 鐄 珊 瑚 虎 珀
神 八 部 金 剛 𥪸 执, 鎮 扶 𤤰 埃 𧡊 庄 驚
像 三 身 寶 相 𡎢 排, 雍 護 主 𡎝 芾 敢 敵
左 阿 難 大 士, 運 裟 花 燐 所韻為
右 土 地 龍 神, 默 奧 錦 𤻼 廊 搠 㩍.
Trước án tiền, đẳng kinh ba bức, tố khảm mã não, xà cừ
Trên thượng điện, thánh tượng mấy tòa, vẽ vàng san hô, hổ phách
Thần Bát bộ Kim Cang đứng chấp, trấn phò vua ai thấy chẳng kinh
Tượng Tam thân bảo tướng ngồi bày, ủng hộ chúa cõi nào dám địch
Tả A Nan đại sĩ vận sa hoa sặc sỡ vân vi
Hữu Thổ địa Long thần, mặc áo gấm lổ lang xốc xếch.
Trên bàn Phật được chạm trỗ bởi mã não, xà cừ, san hô, hổ phách… sắc phục của những tượng được thờ rất sặc sỡ, chi tiết. Trên điện chính có ba tượng Tam thế Phật (Phật quá khứ – Di Đà, Phật hiện tại – Thích Ca, Phật tương lai – Di Lặc). Sở dĩ có ba tượng Phật ấy vì lúc Thiền sư Chân Nguyên thọ giới Bồ tát, không có Sư chứng đàn, Ngài liền thỉnh Tam thế Phật trên, an tọa và chứng minh cho Ngài thọ Bồ tát giới. Trong điện thờ còn có Thần Kim Cang hộ trì Tam bảo, bên trái thờ Ngài A Nan, bên phải có tượng Thổ địa Long thần… Phong cảnh chùa xưa được làm bằng nhiều chất liệu như ngói rập, gỗ dăm, vách vôi tường gạch…
庵 蜍 祖, 𤮞 拉 楛 箴,
茄 住 僧, 壁 灰 牆 坧.
汆 幅 𢩫 𡨸 篆 墨 耒,
𦊚 邊 繞 构 欄 朔 策.
Am thờ Tổ, ngói rập gỗ dăm,
Nhà trú Tăng, vách vôi tường gạch.
Mấy bức kẻ chữ triện mặc rời,
Bốn bên nhiễu câu lan sóc sách.
Có những bức tranh treo loại thì ngay ngắn, cũng có loại chữ phượng bay rồng múa, những đôi liễng (như những tranh thư pháp hiện nay)…
閣 𢌌 清 鐘 迻 𢽼蟄, 念 南 無, 弭 㗂 唴 唴.
樓 高 捽 𪔠 戞 汆 回, 讀 神 咒 摳 桑 格 格.
𢁸幢 幡 染 鐄 氣, 𣅶 𩙌 迻 法 派 眼 如.
𢂎 𧋦 䏾 樣 顛 屎, 欺 蟄 𨷑 入 儒 時 釋.
Gác rộng thênh chuông đưa vài chập, niệm Nam mô, nhẹ tiếng boong boong.
Lầu cao tót trống dậy mấy hồi, đọc thần chú khua tang cách cách.
Phướn tràng phan nhuộm vàng khè, lúc gió đưa phấp phới nhởn nhơ.
Dù bóng boong dạng đen sì, khi trập mở nhập nhù thì thích.
Có gác chuông, lầu trống để phục vụ cho việc nghi lễ trong chùa và có những khí cụ như tang, chuông, trống, phướn, tràng phan… đó đều là những vật dụng trong những ngôi chùa xưa.
師 君 子 穊 竹 梧 桐,
弟 丈 夫 槞 樁 松 柏.
Sư quân tử cấy trúc ngô đồng,
Đệ trượng phu trồng thông tùng bách.
Hai câu này ý chỉ cho sự tùy duyên tu đạo ở cõi đời. “Sư” chỉ cho Phật giáo, “quân tử” chỉ cho Nho giáo, “trượng phu” chỉ cho Phật. Qua đây, ta có thể hiểu, giữa đạo và đời có sự tương quan, trong đời có đạo, trong đạo có đời, trong xuất thế có nhập thế, trong nhập thế có xuất thế, đây chứa đựng tinh thần tùy duyên bất biến của đạo Phật, ở Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đã dạy: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mích Bồ đề, kháp như cầu thố giác, chánh kiến danh xuất thế, tà kiến danh thế gian, tà chánh tận đả khước, Bồ đề tính uyển nhiên”.
Nghĩa là: Phật pháp nơi thế gian. Không lìa thế gian giác. Lìa thế tìm Bồ đề. Giống như tìm sừng thỏ. Chánh kiến gọi xuất thế. Tà kiến là thế gian. Tà chánh đều dẹp sạch. Tánh Bồ đề hiện rõ.
Ở đây, Thiền tông rõ ràng muốn nhấn mạnh tinh thần, tìm cầu Phật pháp, phải ngay trong thế gian này, Phật pháp không phải là một thế giới khác, tách rời khỏi xã hội hiện tại. Không thể chấp vào sự phân chia tuyệt đối giữa thế gian và xuất thế gian, rời khỏi thế gian để tìm cầu sự giác ngộ trong Phật giáo là việc không có kết quả.
Hình ảnh “cây trúc” chỉ cho người tu ẩn dật, “cây ngô đồng” tích có ghi lại, có những loài chim rất quý chỉ đậu trên cây này, ý nói khi gặp việc gặp thời thì người tu cũng có thể nhập thế giúp ích cho đời, “cây thông tùng bách” ý chỉ cho trong sạch, chí khí hiên ngang, mạnh mẽ kiên cường của người trượng phu. Hai câu này muốn dạy người tu chúng ta, không phải lúc nào cũng ẩn dật nơi núi rừng mới là tu, trong mọi hoàn cảnh đều tu được, đó cũng là tinh thần tùy duyên và nhập thế của đạo Phật, khi đã trở về thể vắng lặng thanh tịnh thì không dừng ở đó, mà phát ra diệu dụng – chân không mà diệu hữu là đây.
Hai câu phú này, chúng ta cũng có thể hiểu sang ý thứ hai: “Sư quân tử”, là vị Sư ra làm quan, khi bình thường thì ẩn dật ở rừng trồng trúc tu hành, khi gặp việc thì ra giúp nước giúp dân, loài chim quý hay đậu trên cây ngô đồng, ý chỉ cho điều này, nhưng cây ngô đồng kỳ hạn của y không lâu dài. Còn đối với những người đệ tử Phật, là bậc trượng phu, kế sống lâu dài, nên trồng thông tùng bách.
Hải Thuần Bảo Hải (ĐSHĐ-53)