Văn hóa Thiền trà của “Trà Thiền Nhất Vị” là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử văn hóa truyền thống Trung Quốc, đồng thời cũng là một đóng góp to lớn của Trung Quốc đối với nền văn minh thế giới. Thế thì, cuối cùng “Trà Thiền Nhất Vị” là gì? Nó từ đâu đến?
Trong khổ sinh lạc, đó là sự kỳ diệu của Thiền Trà Nhất Vị.
Tư tưởng Phật giáo lấy “Khổ, Tập, Diệt Đạo” làm chân lý, dùng trà để so sánh trong đời sống, quả thực là tâm đắc nhất.
Trước tiên, Thiền và trà đều có vị đắng và ngọt, dư vị kéo dài. Cho dù trà ngon đến đâu cũng phải pha bằng nước sôi thích hợp; bất kể Thiền cao sâu đến đâu cũng phải thể nghiệm qua sự sinh hoạt. Cho nên, các bậc Cao Tăng nhiều đời đều nhấn mạnh đến việc tu hành trong cuộc sống và dùng sự tu hành để hướng dẫn chúng sinh. Có một câu chuyện vui như sau:
Vào một buổi chiều trời nhá nhem tối, Tô Đông Pha1 và bạn thâm giao Thiền sư Phật Ấn2 (hai người ngồi thuyền dạo chơi, luận đạo trên sông Dương Tử, một người uống rượu một người thưởng trà. Tô Đông Pha đột nhiên đưa tay chỉ về phía tả ngạn, mỉm cười ngẫu hứng ngâm: “Cẩu khẳng hà thượng cốt”. Phật Ấn tiện thể nhìn theo xem xét tình hình, chỉ thấy một con chó màu vàng đang nhai xương, Sư chợt ngộ ra, liền thời ném chiếc quạt hương bồ đang cầm trong tay có ghi bài thơ của Tô Đông Pha xuống nước, đối lại: “Thủy lưu Đông Pha thi”. Thế rồi cả hai nhìn nhau cười lên ha hả. Hóa ra kết hợp lại thành đôi liễn:
狗啃河上骨
水流东坡诗
Bờ sông Chó gặm xương
Thơ Đông Pha nước xiết
Cái tuyệt diệu của câu đối này là ở chỗ chơi chữ, “Cẩu khẳng hà thượng cốt” (狗啃河上骨Chó gặm xương trên sông). Hai từ “hà thượng” (河上héshang: trên sông) đồng âm với “Hòa thượng” (和尚héshang: Hòa thượng), tức là một câu có hai nghĩa.
– Câu một: 狗啃河上骨. Ý nghĩa của tầng thứ nhất: “Con chó đang gặm xương bên bờ sông (河岸边). Bởi vì, hà thượng đồng âm với Hòa thượng, cho nên, ý nghĩa của tầng thứ hai: Tô Đông Pha chế giễu Hòa thượng Phật Ấn, ông nói rằng thứ mà con chó đang gặm chính là xương của Phật Ấn (狗啃和尚骨: Cẩu khẳng Hòa Thượng cốt: chó gặm xương Hòa Thượng).
– Câu hai: 水流东坡诗. Ý nghĩa của tầng thứ nhất: “Nước cuốn thơ Đông Pha trôi theo dòng nước”. Bởi vì “thi” (诗thơ) đồng âm với “thi” (尸xác chết), mà Đông Pha (东坡) lại là địa danh, nằm ở sườn dốc phía Đông huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc. Câu chuyện xảy ra trong tình huống là Phật Ấn gấp chiếc quạt giấy có bài thơ của Tô Đông Pha ném xuống dòng nước, cho nên, ý nghĩa của tầng thứ hai: “thứ đang trôi trên nước là thi thể của Đông Pha” (水流东坡 尸: Thủy lưu Đông Pha thi: nước cuốn xác Đông Pha) Cảnh giới càng cao, vô thường càng kỳ diệu. Thế nên, trong khổ (苦) sinh lạc là cái tuyệt vời của Thiền trà nhất vị.
Thiền và trà đều tinh khiết trong Tập (集), làm cho tâm sảng khoái người dễ chịu. Tập là Duyên phận vậy. Cho nên, lấy trà làm Đạo cần phải xem duyên phận, người xưa nói: Đạo khác nhau chớ tìm nhau.
Nhiều người cho rằng, hàng ngày họ dùng một bộ trà cụ sang trọng, pha một ấm trà cao cấp, đốt một nén trầm hương thượng đẳng, cắm một bình hoa tươi, thưởng thức nhã nhạc3 … Tuổi còn trẻ mà có người hầu phục vụ, tiêu phí thời gian ngồi đó để nhấm nháp từng ngụm, cho là trà đạo, thực ra là họ đang chờ đợi cái chết.
Chẳng bằng những người nông dân lao động vất vả, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Khi trở về nhà, mồ hôi vẫn còn nhễ nhại sau một ngày cày cuốc dưới nắng, bà con dùng một chiếc bát to thô sơ, nhóm bếp lửa củi, pha một ấm trà Hồng bạch4chưa qua tinh chế, rồi những lão nông này cứ từng ngụm từng ngụm rót vào bụng, thở một hơi dài thư thả, ung dung, vô cùng sảng khoái, đó mới gọi là Thiền Trà Nhất Vị; Sau một tuần làm việc, ngày Chủ nhật cả nhà sẽ đến công viên, mang theo thức ăn nhẹ của gia đình, ngâm vài bát Cái Uyển Trà5, rồi chơi đánh bài, chơi mạt chược, cùng nói chuyện phiếm dưới ánh nắng của trời đông, tình thân ấm áp, già trẻ đều vui, đây mới là Thiền Trà Nhất Vị; Một vài công nhân già và các cán bộ kỳ cựu đã về hưu, họ pha một ấm trà lớn giữ nhiệt, vui vẻ đánh cờ, đối ẩm, hóng gió phía sân sau của chùa hoặc miếu, không nhượng bộ nhau, đây mới là Thiền Trà Nhất Vị.
Đối cảnh mà sinh tâm, hợp duyên mà sinh Thiền, vốn không thể cưỡng cầu. Cho nên, trong Tập phát sinh niềm vui, sự hứng thú đó mới là Thiền Trà Nhất Vị.
Hơn nữa, Thiền và Trà đều là hương thơm kỳ diệu trong Diệt (灭), với dư vị lâu dài. Diệt, là sự vô thường của Thành, Trụ, Hoại, Không, đó là bốn giai đoạn biến đổi của thế giới, tức là bốn đại kiếp.
– Thành kiếp: Thời kỳ sản sinh.
– Trụ kiếp: Thời kỳ tồn tại.
– Hoại kiếp: Thời kỳ hủy diệt.
– Không kiếp: Thời kỳ mà tất cả sự vật mỗi mỗi đều không có tự tánh.
Vì vậy, Thiền và Trà không có tốt hay xấu, không có đúng hay sai, không có lấy hay bỏ, không có đoạn kiến với thường kiến, mùi hương sẵn có từ xưa nay.
– Không tốt xấu: Tất cả đều sinh ra từ phiền não nhiễm ô, bản chất chân như, cho nên, không cần dính mắc.
– Không đúng sai: Nhu cầu cũng khác nhau ở mỗi người, trà xanh làm mát dạ dày, trà đen làm ấm dạ dày, cho dù trà cao cấp đến đâu, chất lượng có khác nhau đến đâu, bản thân cũng có thể chọn theo nhu cầu của mình mới là thích hợp.
– Không thủ xả: Dùng thì có lợi, không dùng cũng chẳng liên quan đến vấn đề sinh tử. Giải thoát không nằm ở Thiền mà nằm ở tâm, sinh tử không nằm ở trà mà tất yếu phải là nước. Không Thiền cũng có thể giải thoát, không trà cũng có thể giải khát.
– Không đoạn thường: Nếu đạt được sự kỳ diệu trong đó, Thiền, Trà đều là đạo, chấp đoạn chấp thường không thể áp dụng
Mãi cho đến nay, tôi luôn rất thích uống trà, nhưng tôi sống ở vùng nông thôn miền núi, chủ yếu là bôn ba theo Tăng đoàn trong tự viện, nên lấy không khát nước làm niềm vui lớn. Thỉnh thoảng, lúc thư nhàn, dưới ánh nắng của vầng thái dương, đệ tử của tôi cao hứng nhớ ra, mới pha một tách “trà ngon”, tự mình thưởng thức cũng tự mình có được niềm an lạc trong đó, nhàn nhã thong dong tự tại!
Pháp không thể nói, không thể hỏi, mỗi người tự mình vui vẻ là tốt!
Pháp Sư Tố Toàn (素全法师)
Thanh Như dịch (ĐSHĐ-140)
- Tô Thức (苏轼8/1/1037-21/8/1101): Tự Tử Chiêm (子瞻), tên chữ Hòa Trọng (和仲), hiệu Thiết Quan đạo nhân (铁冠道人), Đông Pha cư sĩ (东坡居士). Người đương thời gọi ông là Tô Tiên, Pha Tiên, Tô Ngọc Cục (苏玉局). Nguyên quán My Sơn, My Châu, (nay là thành phố My Sơn, Tỉnh Tứ Xuyên). Ông là Văn học gia, Thư pháp gia, Mỹ thuật gia, Thư họa gia thuộc triều đại Bắc Tống, là một trong Bát đại gia thời Đường, Tống, và là danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Năm 1079, ông bị kết án Ô Đài Thi Án (乌台诗案), giáng xuống Hoàng Châu làm Đoàn Luyện Phó Sứ, danh nghĩa là Đoàn Luyện Phó Sứ, thực ra là bị giám sát nơi cư trú, không thể rời Hoàng Châu một cách tùy ý, và không thể tham gia vào việc công, điều khó khăn nhất là không có lương bổng, chỉ lãnh được một số gạo mì vải vóc. Trước khi xảy ra vụ án, Tô Thức tuy làm quan đến chức Tri Châu, nhưng ông là một vị quan thanh liêm, những người già trẻ trong gia đình cần ông cấp dưỡng, mà ông không tích lũy được bao nhiêu. May mắn thay, dù con đường hoạn lộ không đắc ý, nhưng ông đã có bạn bè khắp trong thiên hạ. Ông từng nói: “Trên có thể đi cùng Ngọc Hoàng Đại Đế, dưới có thể đi cùng những người ăn xin”.
- Phật Ấn Thiền sư (佛印禅师1032-1098): Cao Tăng Vân Môn thời Bắc Tống. Pháp danh Liễu Nguyên (了元), tự Giác Lão (觉老), họ Lâm, quê ở Nhiêu Châu, Phù Lương (trước đây là huyện Phàn Dương, tỉnh Giang Tây, nay là thành phố Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây). Từ nhỏ Sư đã học kinh điển Nho gia, 3 tuổi làu thông Luận Ngữ và nhiều thi phẩm các nhà thơ, 5 tuổi có thể đọc thuộc lòng 3.000 bài thơ, được gọi là thần đồng. Sư trú tại Vân Cư hơn 40 năm, bạn thân của Tô Đông Pha.
- Nhã nhạc (雅乐): Âm nhạc dùng trong đại lễ khánh chúc triều kiến Hoàng đế, cũng như cúng tế thiên địa… thời cổ đại.
- Trà hồng bạch (红白茶): Loại trà hiếm có trong trà bạch, có nguồn gôc từ vùng núi Oanh Hoa, thành phố Thập Phương, tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc. Bởi vì loại trà này chỉ thấy nhiều ở thôn Oanh Hoa và thôn Hồng Bạch, cho nên người địa phương gọi nó là trà hồng bạch.
- Cái Uyển Trà (盖碗茶): Phong tục uống trà truyền thống của người dân địa phương Tứ Xuyên. Đó là một bộ trà cụ có nắp ở phía trên, bát ở giữa và đế ở phía dưới. Còn gọi là “Tam tài uyển”, nắp đậy là Thiên, đế là Địa, bát là Nhân. Trà Cái Uyển có nguồn gốc từ Tứ Xuyên vào thời nhà Đường, phổ biến ở Kinh sư (Thủ đô) thời nhà Thanh, từ chuyên gia quý tộc, cung đình hoàng thất cho đến các quán trà trang nhã đều xem trọng Cái Uyển Trà. Cái Uyển Trà thích hợp để giữ ấm, vì vậy nó lưu hành ở khắp mọi nơi.