Bước qua các triều đại phong kiến, chư Ni Hà Nội từng bước kiện toàn đoàn thể Ni giới trên nhiều phương diện. Từ nửa sau thế kỷ XIX, chư Ni nỗ lực kế thừa các di sản văn hóa lớn, một thời là các trung tâm Phật giáo tầm cỡ của Hà Nội. Qua công tác quản lý tự viện có thể thấy đầu thế kỷ XX, Ni đoàn Thủ đô trở nên dày dặn hơn với nhiều cơ sở chùa tháp, Tổ đình Ni, Sơn môn Ni. Sau đây là một số tự viện và các nữ tu sĩ nổi bật tại Hà Nội:
CÁC TỔ ĐÌNH, TỰ VIỆN NI NỔI TIẾNG TẠI HÀ NỘI
STT | TỔ ĐÌNH/ CHÙA | LỊCH SỬ | CÁC ĐỜI TRỤ TRÌ |
1 | Chùa Am (Phổ Quang Tự) – ngõ 29 phố Cửa Bắc. | Chùa dựng vào TK. XIX, do bà Châu Thị Tế (vợ Thoại Ngọc Hầu) lập để tự tu hành. Chùa còn lưu giữ ba tấm bia thuộc các đời chúa Nguyễn. | Chùa từng là chốn Tổ Ni rất lớn, y chỉ vào sơn môn Hòe Nhai, quận Ba Đình. |
2 | Chùa Bát Tháp (Sơn Tháp Tự), phố Đội Cấn, Q. Ba Đình. | Chùa dựng từ thời Lý và trở thành điểm An cư kiết hạ hàng năm, trường dạy học (1930-1950). Năm 1989, chùa được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. | 1. NT. Đàm Đoan, sơn môn Trung Hậu. 2. NT. Đàm Nhân (Minh Đức). 3. NT. Đàm Sâm. 4. NS. Đàm Luật, Đàm Nghiêm. 5. NT. Đàm Hinh. 6. NS. Đàm Thanh. |
3 | Chùa Cầu Đông, phố Hàng Đường, Hàng Đào, Q. Hoàn Kiếm. | Chùa dựng vào đầu thế kỷ XVIII, trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn I do Sư Tăng Trụ trì trải 9 đời; giai đoạn II do 7 Sư Ni Trụ trì. | 1. NT. Thích Đàm Chiên. 2. NT. Thích Đàm Phụng. 3. NT. Thích Đàm Thư. 4. NT. Thích Đàm Nghiêm. 5. NT. Thích Đàm Ân. 6. NT. Thích Đàm Tỵ 7. NS. Thích Đàm Toàn. |
4 | Chùa Đồng Quang, phố Tây Sơn, Đống Đa. | Chùa dựng thời Tự Đức (1851). Từ năm 1915 đến nay, chùa là nơi Trụ trì của các vị Sư Ni thuộc sơn môn Bà Đá. | 1. NT. Nguyên Nhâm, ở Am Cửa Bắc. 2. NT. Đàm Tiến. 3. NS. Đàm Luân và NS. Đàm Nghĩa. 4. TKN. Đàm Nền. |
5 | Chùa Hai Bà Trưng (Viên Minh Tự), P. Đồng Nhân, Q. Hai Bà Trưng. | Chùa dựng năm 1840. | 1. NT. Đàm Kiền – Ninh Cường Thiền sư. 2. NT. Thích Đàm Chất. 3. Tâm địa giới Diệu Nghĩa. 4. Tâm địa giới Đàm Hinh (Tĩnh Hinh). 5. NT. Đàm Thuần (Nhu Thuần). 6. NT. Đàm Thu (Minh Mẫn). 7. TKN. Đàm Vinh, đương kim Trụ trì. |
6 | Chùa Hoàng Mai (Nga Mi Thiền Tự), Hai Bà Trưng. | Dựng từ năm 1463. Giai đoạn 1, thế hệ Tăng Trụ trì gồm 4 vị Sư Tổ. Giai đoạn 2 từ năm 1910 do thế hệ Ni Trụ trì, gồm 4 vị. | 1. NT. Đàm Quang, Trụ trì chùa Tam Huyền kiêm chùa Hoàng Mai. 2. NT. Đàm Hòa, Đàm Túc, Đàm Sâm. 3. NT. Đàm Tín, Đàm Duyên. 4. NT. Đàm Hảo, Đàm Kim. |
7 | Chùa Kiến Sơ (chùa Gióng) xã Phù Đổng, H. Gia Lâm. | Chùa do vua Ngô Tôn Quyền dựng năm 2411. Đây là nơi cư trú và truyền pháp của Thiền Sư Vô Ngôn Thông (820). Cũng là chiếc nôi đào tạo hàng chục bậc Thiền sư lỗi lạc. | 1. NT. Đàm Minh, huyện Gia Lâm. 2. NT. Đàm Nhị. 3. NT. Đàm Vĩnh. 4. NS. Đàm Nhân – Từ Từ. 5. TKN. Đàm Tuyên. |
8 | Chùa Kim Liên (Hoàng Ân Tự), phường Nghi Tàm, quận Tây Hồ. | Dựng từ thời Lê Nhân Tông, trùng tu năm 1792, thời Tây Sơn. Giai đoạn 1, thế hệ Tăng Trụ trì, gồm 8 đời. Giai đoạn 2 do thế hệ Ni Trụ trì, trải qua 6 đời. | 1. NT. Đàm Hương (1827-1902). 2. NT. Đàm Phác – Minh Hiên (?-1917). 3. NT. Đàm Thìn (1892- 1928). 4. NS. Đàm Dần (?-1969). 5. TKN. Đàm Mão, Đàm Tựu. 6. NT. TS. Đàm Thành. |
9 | Chùa Kim Sơn (Tàu Mã), Kim Mã, Ba Đình. | Chùa dựng năm 1831. Năm 1897 trùng tu, thỉnh sư Đàm Thịnh Trụ trì và đổi tên chùa từ Tàu Mã thành Kim Sơn. | 1. NT. Đàm Thịnh (Sơn môn Sùng Khang). 2. NT. Đàm Thụ (1896-1958). 3. NS. Thích Đàm Hỷ (1903- 1981). 4. NS. Thích Đàm Tiến. |
10 | Chùa Láng (Chiêu Thiền Tự), P.Láng Thượng, Q. Đống Đa. Đây là quê của Thiền sư Đạo Hạnh. | Chùa dựng từ thời Lý, để thờ Thiền sư Đạo Hạnh2. Những năm đầu thế kỷ XX, chùa có các vị Ni từ sơn môn Khê Hồi, huyện Thường Tín đến Trụ trì, tu sửa, truyền bá chính pháp. | 1. NT. Thích Chiếu Mẫn – Từ Nhân. 2. NT. Thích Đàm Thụy – Nhẫn Thuận. 3. NT. Thích Đàm Miên. 4. NT. Thích Đàm Tịnh – Phúc Tuệ. 5. NS. Thích Đàm Dụ – Chính Trực. 6. NS. Thích Đàm Hiển. 7. NS. Thích Đàm Lý – Tự Tại. 8. NS. Thích Đàm Thỉnh – Yên Hòa. 9. TKN. Đàm Huyền. |
11 | Chùa Nam Đồng (Càn An Tự), phố Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa. | Chùa dựng năm 1141. Vào thế kỷ XVIII, thiền sư Tính Tuyền Thích Trạm Trạm từ Trung Quốc về chùa. Thế hệ Tăng Trụ trì 8 đời. Từ 1946-1951, vắng sư. Thế hệ Ni có 5 đời Trụ trì. | 1. TKN. Đàm Hỷ – Từ Phương (1952), tu sửa, mở trường đào tạo Ni giới. 2. NT. Đàm Nguyên, Đàm Chung. 3. NT. Đàm Duyệt. 4. NS. Đàm Tiến. 5. TKN. Đàm Tịnh. |
12 | Chùa Sải (Tĩnh Lâu Tự) quận Tây Hồ. | Chùa dựng đầu TK. XVII. Do chiến tranh, các thế hệ Trụ trì bị gián đoạn. Trước 1799 – 1899, Sư Tăng Trụ trì 3 đời. Sau đó, thế hệ Ni có 4 đời Trụ trì. | 1. Tâm địa giới Tịch Niệm. 2. Tâm địa giới Thích Diệu Thìn. 3. TN. Đàm Huân. 4. TKN.Đàm Chung. |
13 | Chùa Tam Huyền (Sùng Phúc Tự), phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân. |
Chùa dựng từ thời Lý. Giai đoạn 1 do 4 đời Tăng Trụ trì. Giai đoạn 2 do 7 đời Ni Trụ trì, kể từ năm 1907. | 1. NT. Đàm Quang, chùa Hoàng Mai. 2. NT.Thích Đàm Dược. 3. NT.Thích Đàm Tuệ. 4. NT.Thích Đàm An. 5. NT.Thích Đàm Cát. 6. NT.Thích Đàm Hào. 7. NT. Đàm Hảo, Đàm Kim, Đàm Xuân. |
14 | Chùa Xã Đàn (Kim Yên Tự), P. Nam Đồng, Q. Đống Đa. | Chùa dựng từ thế kỷ XV. Giai đoạn đầu có 3 đời Tăng Trụ trì: Thiền sư Huệ Minh, Thiền sư Giác Lâm, Thiền sư Thanh Chiêu. Thế hệ Ni gồm 5 đời. | 1. NT. Đàm Ấn (1853 – 1915). 2. NT. Thích Đàm Phú – Thuần Cẩn. 3. NT. Thích Đàm Hiên. 4. NT. Đàm Đậu (Dung) – Thuần Hòa. 5. NS. Thích Đàm Bình. |
15 | Chùa Vân Hồ (Linh Thông Tự), phố Lê Đại Hành. | Chùa dựng năm 1814. Tháng 9/1949, chùa khai giảng một Phật học đường cho Ni sinh. NT. Tịnh Bích từng theo học Phật pháp tại chùa lúc 18 tuổi3 . | 1. Tâm địa giới Tịch Địch Bồ tát. 2. NT. Chiếu Tố. 3. NT. Đàm Tuyến, hiệu Từ Ty. 4. NT. Đàm Phận, NS. Đàm Đoan. 5. NT. Đàm Y, NT. Đàm Tỵ – Từ Hòa. 6. NS. Đàm Hợp. |
16 | Hương Hải Ni Viện (chùa Linh Ứng4). | Chùa xây dựng thời Lý (1009-1225). Thiền sư Chân Không dạy Ni sư Diệu Nhân Trụ trì Ni viện Hương Hải5. | 1. NS. Diệu Nhân. 2. NS. Diệu Lý. |
17 | Chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm/Tiên Lữ), huyện Chương Mỹ. | chùa xây từ đời Lý, 1185. Trải qua 1 đời Sư Tăng và 5 đời Sư Ni Trụ trì. | 1. TKN. Như Bích. 2. TKN. Diệu Sử – giới Sử. 3. SDN. Tánh Côn. 4. NT. Thích Đàm Hiền. 5. NT. Thích Đàm Khoa. |

Việc kế thừa hàng chục Tổ đình, danh lam cổ tự thuộc Di sản văn hóa – lịch sử các cấp của chư Tôn túc Ni tại Hà Nội không chỉ góp phần vào việc gìn giữ nếp đạo của tiền nhân mà còn khẳng định sức sống mãnh liệt của đạo Phật, của Ni giới sau hơn 2000 năm văn hiến. Phải nói rằng, Hà Nội là mảnh đất có số lượng cổ tự Ni lớn nhất cả nước. Huyết mạnh của Phật giáo Lý – Trần còn in dấu trong nhiều di tích cổ tự Ni của Thăng Long, Hà Nội. Những Tổ đình lớn như Sơn Môn Am tại Hàng Than, Sơn Môn Khoang tại Hà Đông, chùa Viên Minh,… một thời là những Ni viện, Hạ trường, Trung tâm tu học của Ni chúng Hà Thành6. Chính những chiếc nôi lịch sử này đã nuôi dưỡng, đào tạo, sản sinh ra nhiều thế hệ Ni lưu tài đức không chỉ phụng sự trên mảnh đất Thủ đô mà còn nối dài đạo mạch Ni lưu để chư Ni được trải dài khắp miền Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Chẳng hạn, chỉ tính riêng Hải Phòng đã có đến 4 sơn môn Ni đều từ Hà Nội xuống như: Phùng Khoang (Thanh Xuân Tự); An Lãng (Chiêu Thiền Tự); Phú Diễn (quận Nam Từ Liêm); Chùa Lạc Viên (Quang Huy Tự).
Về mặt truyền đăng tục diệm, đàn giới cho Ni chúng cũng đã được phân định rõ ràng vào đầu thế kỷ XX (1925-1930). Không những kế thừa chiếc nôi của Trúc Lâm Thiền phái mà Ni giới Hà Nội còn kế thừa yếu chỉ của Tịnh Độ, Mật tông và các dòng phái Tào Động, Lâm Tế. Chư Tôn túc Ni vẫn tiếp tục nương tựa tu học theo các sơn môn, Tổ đình lớn như Vĩnh Nghiêm, Bà Đá… Dù Tổ đình Ni ra đời vẫn y chỉ vào Tăng bộ, chẳng hạn Sơn môn Khê Hồi, huyện Thường Tín có 4 Tổ đình Ni: chùa Dầm, chùa Trừ (huyện Thanh Oai), chùa Phùng Khoang (Q. Nam Từ Liêm); chùa Láng (Chiêu Thiền Tự). Hay Sơn môn Trung Hậu, huyện Mê Linh có các Tổ đình Ni: Sùng Khang (Đại Cát, Q. Bắc Từ Liêm), Bát Tháp (Q. Ba Đình), chùa Tam Huyền (Q. Thanh Xuân), chùa Hoàng Mai (Nga Mi Thiền Tự, Q. Hoàng Mai7),… Nhờ nương tựa các Tổ đình lớn, Ni giới Hà Nội được đào tạo ngày thêm đông và tích cực dấn thân vào các phong trào chấn hưng, phong trào cứu quốc. Tiêu biểu như các Ni trưởng: Đàm Thu, Đàm Soạn, Đàm Hữu, Đàm Tín, Đàm Xương8,… Trong giai đoạn chống Pháp (1948-1951), chùa Diên Khánh (quận Cầu Giấy) là cơ sở cách mạng quan trọng. Sư cụ Đàm Đăng cùng hai Ni cô Đàm Minh, Đàm Trạch đã bí mật đào hầm, tạo nơi trú ẩn cho cán bộ, du kích. Sự cống hiến của chư Ni đã được ghi nhận và NS. Đàm Đăng được tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất9; ngay cả quý Ni trưởng Thích Đàm Để, Thích Đàm Ánh… cũng đã được Nhà nước trao tặng nhiều Huân chương, huy chương cao quý10.

Trước làn sóng chấn hưng nổi dậy khắp 3 miền, chư Ni miền Bắc nhanh chóng cùng Ni giới hai miền Nam – Trung bước vào vận hội chấn chỉnh đời sống Ni giới. Khi Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập (1934), chư Ni được thỉnh vào Ban Đạo sư (do Tổ Vĩnh Nghiêm làm Trưởng ban) như cụ Đàm Tiến, Đàm Đạo, cụ Đàm Xám, cụ Đàm Yến, Đàm Uẩn. Đây là thời kỳ mà chư Ni các miền chú trọng đến phong trào học Phật và đẩy mạnh công tác giáo dục. Trước khi Hội Phật giáo Bắc Kỳ ra đời (1934), tại chùa Viên Minh, quý NT. Đàm Kiền, Đàm Chất, Đàm Nghĩa, Đàm Hinh, Đàm Thuần đã thành lập Ni trường, quy tụ hàng trăm Ni chúng về tu học. Năm 1941-1945, lớp Ni học được mở tại chùa Bồ Đề với tổng số khóa đầu trên 100 vị. Đây là Ni viện đầu tiên tổ chức theo kiểu Học viện do thiền sư Thanh Hanh lãnh đạo. Cũng trong năm 1941, chư Ni tham học tại Trường Phổ Quang (cạnh chùa Tế Độ – sau bị chiến tranh tàn phá) – là trường vừa học vừa làm đầu tiên do Hội Phật giáo Bắc Kỳ ủy quyền cho cư sĩ Thiều Chửu xây dựng. Trong 62 trò thì NS. Thích Đàm Ảnh (chùa Phụng Thánh, HN) là một Ni sinh xuất chúng thời đó. Sự kết hợp chương trình thế và Phật học của các trường vào giai đoạn này đã góp phần giải quyết nạn thất học cho Ni chúng trong bối cảnh chiến tranh.

Ngày 20/8/1949, Hội Tăng Ni chỉnh Lý Bắc Việt cho khai giảng Phật học đường Vân Hồ (do Thiền sư Tố Liên vận động thành lập) dành cho chư Ni. Bấy giờ, NT. Đàm Soạn được mời làm Giám học và Quản chúng; sau đó kế thừa Trụ trì Ni viện Vân Hồ 11(chùa Thanh Nhàn/Từ Hàng/Đức Viên). Hợp tác cùng NT. Đàm Soạn còn có NT. Đàm Đậu (chùa Đàn Thu – Hà Nội) – tài đức vẹn toàn nhất Ni viện Vân Hồ. Cả hai đều cộng sự quản lý, giảng dạy rất đắc lực, thu nhận tới 50 Ni sinh trong niên khóa đầu12 với chương trình học nội điển, kèm sinh ngữ, khoa học phổ thông và tiểu công nghệ. Nhờ đó, Ni viện Vân Hồ bước vào thời kỳ thịnh đạt kể từ năm 195213. Bên cạnh phục vụ cho Ni giới Hà Nội, NT. Đàm Soạn còn được biết đến là người từng được mời vào cung thuyết giảng cho hoàng hậu, phi tần và nữ quan nhà Nguyễn. Năm 1928, Ni trưởng xem đất để xây cất chùa Diệu Viên và hoạt động Phật sự ở Huế; sau đó được trưởng tử NS. Hương Đạo làm Viện chủ. Năm 1952, Ni trưởng tích cực ủng hộ Hội Nữ Phật tử Dược Sư hiến cúng chùa để thành lập Ni trường lớn tại Gia Định, Sài Gòn. Những người có công lao trong sự nghiệp giáo dục Ni giới Phật giáo miền Bắc, nhất là giáo dục Ni giới Hà Nội thời kỳ này phải kể đến quý Ni sư đạo hiệu Đàm Soạn, Đàm Thái, Đàm Hữu, Đàm Tín, Đàm Xương, Đàm Nhung, Đàm Đậu14, Đàm Thu (1885-196715)… Đây là những ngôi sao sáng của Ni giới xứ Bắc16 nói chung và của Hà Nội nói riêng.
Bên cạnh những chiếc nôi giáo dục này, Ni chúng còn theo học tại các trường do Hà Nội khai mở như Trường Ni giới Vạn Hạnh (1949-1954) và các Trường chung cho Tăng Ni như Trường Khuông Việt, lớp tu học Phật pháp tại chùa Quảng Bá, Trường Hạ của các Tổ đình, sơn môn. Trong đó, có các Ni sinh Đàm Ánh, Đàm Mai,… đến thọ học kinh điển giáo lý, giáo luật, văn hóa, lịch sử Phật giáo, nghiên cứu chính trị17. Từ đây, Hà Nội lại tiếp tục sản sinh ra những thế hệ Ni lưu hết lòng vì sự nghiệp giáo dục như NT. Thích Đàm Hảo (1929 – 2014) – Nguyên Hiệu phó kiêm Giảng sư Ni trường Trung cấp Phật học Hà Nội, Thủ chúng Ni Hà Nội, Phó Phân ban đặc trách giáo dục Ni chúng, bậc cao thiền của Ni giới Việt Nam. Có thể nói, giai đoạn 1930-1981, công tác giáo dục Ni giới tiến triển cả về chiều rộng và chiều sâu dù chùa miếu miền Bắc hư hại nặng nề do sự đánh phá dữ dội của Mỹ. Ngoại trừ những năm 1963, mọi hoạt động của Ni lưu, kể cả giáo dục dường như giậm chân tại chỗ, không rực rỡ như miền Nam. Dầu vậy, Ni giới vẫn khẳng định được vị thế của mình và đào tạo được thế hệ kế thừa trở thành nhân tố nòng cốt, gánh vác Phật sự giai đoạn kế tiếp.
Như vậy, hoạt động giáo dục của Ni giới thời kỳ này được chuyển dần từ tính gia giáo, rời rạc, nhỏ lẻ, có phần tự phát tại các bổn tự sang một đường hướng giáo dục có tính tập trung tại các Ni trường, Ni viện và Phật Học viện với cơ cấu tổ chức phòng ban, quy chế, ký túc xá,… giúp chư Ni trẻ tập trung phát triển năng lực cả về Phật học và thế học. Bên cạnh đó, lớp gia giáo tại các Tổ đình, tự viện vẫn được duy trì, tạo cơ sở nền móng cho chư Ni trẻ tiếp tục học cao hơn. Giai đoạn này có phần khởi sắc, sôi nổi hơn các thời kỳ trước. Một phần cũng nhờ điều kiện cư trú của chư Ni khá ổn định, nhiều vị gánh vác vai trò Trụ trì, có Tổ đình Ni, Sơn môn Ni. Một phần, các chùa Ni tại Hà Nội đều y vào Tăng – những tòng lâm, trung tâm lớn của Thủ đô nên đã được đào tạo trong khuôn khổ nhất định. Có thể nói, đóng góp của chư Ni Hà Nội vào nửa cuối TK. XIX, đầu TK. XX đã đánh dấu bước tiến lớn mạnh trong việc đào tạo thế hệ kế thừa; đồng thời đặt ra một tiền đề lớn trong việc xây dựng, phát triển đoàn thể Ni giới tại Thủ đô, để Ni giới được phân bố, hành đạo rộng khắp miền Bắc. Đó cũng là dấu ấn khiến học giả Nguyễn Đại Đồng cho rằng Ni đoàn miền Bắc ra đời vào tháng 12/1934.
Hạnh Hiếu (ĐSHĐ-139)
- Nguyễn Lang, 2009, “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 1”, NXB. Văn Học – Hà Nội, tr. 34.
- Thích Thanh Từ, (2010), “Thiền Sư Việt Nam”, NXB. Tôn Giáo Hà Nội, tr. 108.
- Thích Trung Hậu – Thích Hải Ấn, (2011), “Chư Tôn Thiền Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa – Tập 2”, NXB. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, tr. 616.
- Thích Thanh Từ, (2010), “Thiền Sư Việt Nam”, NXB. Tôn Giáo Hà Nội, tr. 173.
- Sđd, tr. 173.
- Nguyễn Lang, (2009), “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 1”, NXB. Văn Học Hà Nội, tr. 747.
- Nguyễn Đại Đồng, 2019, “Sự ra đời của Ni đoàn Phật giáo xứ Bắc”, trong Tài liệu Hội thảo khoa học Kỷ niệm 906 năm Ni sư Diệu Nhân viên tịch cùng chư vị Tổ sư Ni tiền bối hữu công, NXB. Khoa học xã hội, tr. 271.
- Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, (2019), “Vai trò của nữ giới trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, Trích tham luận tại Hội thảo “Nữ Phật tử với Phật giáo Việt Nam” NXB. Khoa học Xã hội.
- TS. Bùi Hữu Dược, Ni giới Việt Nam cùng Phật giáo trong dòng chảy lịch sử”, nguồn: https://phatgiao.org.vn/ni-gioi-viet-nam-cung-phat-giao-trong-dong-chay-lich-su-d37923.html, truy cập ngày 2/1/2025.
- “Thành hội Phật giáo Hà Nội – 25 năm trưởng thành và phát triển của Phật giáo Thủ đô”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 6/2006, tr.22 – 25.
- Thích Trung Hậu – Thích Hải Ấn, (2011), “Chư Tôn Thiền Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa – Tập 2”, NXB. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, tr. 596.
- Nguyễn Lang, (2009), “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 1”, NXB. Văn Học – Hà Nội, tr. 738.
- Sđd, tr. 747.
- Ban Giáo Dục Tăng Ni TW, Hội Thảo Khoa Học: Giáo Dục Phật Giáo – Định Hướng & Phát Triển, (2012), Lưu hành nội bộ, tr. 427.
- Minh Quang, “Đức Tính Dấn Thân Của Ni Giới Việt Nam”, nguồn: https://chuaxaloi.vn/thong-tin/duc-tinh-dan-than-cua-ni-gioi-viet-nam/4291.html, truy cập ngày 27/12/2024.
- Nguyễn Đại Đồng, 2019, “Sự ra đời của Ni đoàn Phật giáo xứ Bắc”, trong Tài liệu Hội thảo khoa học Kỷ niệm 906 năm Ni sư Diệu Nhân viên tịch cùng chư vị Tổ sư Ni tiền bối hữu công, NXB. Khoa học xã hội, tr. 271.
- Ban Giáo Dục Tăng Ni TW, Hội Thảo Khoa Học: Giáo Dục Phật Giáo – Định Hướng & Phát Triển, (2012), Lưu hành nội bộ, tr. 428.