Dẫn nhập
Trong lịch sử nhân loại, xuyên suốt mọi thời kỳ dù ở vùng đất nào chính con người nơi đó đều xem vai trò, vị trí của người phụ nữ rất thấp và thậm chí bị phủ nhận hoàn toàn. Do đó, vấn đề bình đẳng giới luôn là nỗi thao thức của người nữ. Họ mong muốn đứng lên để khẳng định chính mình cũng có thể làm được những điều như nam giới. Thế nhưng, cơ hội đó chưa từng xuất hiện cho đến khi Phật giáo xuất hiện. Bằng một hành động thử thách, Đức Phật đã ngang qua sự kiện từ chối lời thỉnh cầu xuất gia của Di mẫu Gotamī để khảo sát dư luận xã hội về vấn đề cho người nữ xuất gia. Và một điều dĩ nhiên, khi dân chúng Ấn Độ nghe tin phụ nữ xin xuất gia thì họ đều phản ứng mạnh mẽ, vì Đức Phật đã đi ngược lại truyền thống “trọng nam khinh nữ” của họ.
Vậy, đứng trước một truyền thống với định kiến nặng nề về phân biệt giới tính cùng với làn sóng phản đối của một số Tỷ-kheo trong nội bộ Tăng đoàn và dư luận bên ngoài về việc xin xuất gia của người nữ. Hiển nhiên, đầu tiên Đức Phật sẽ từ chối vì những lý do khách quan lẫn chủ quan. Thế nhưng, thực chất sự thật của vấn đề là như thế nào để đánh giá và nhìn nhận một cách chân thật về sự kiện trên theo tính liên ngành và dưới nhiều góc độ. Với chủ đề này, từ duyên khởi câu chuyện xuất gia của Di mẫu Mahāpajāpatī Gotamī và hành động từ chối của Đức Phật được ghi lại trong Kinh tạng, Luật tạng, người viết đi sâu tập trung làm rõ hai điểm: 1. Phân tích và lý giải những nguyên nhân Đức Phật từ chối; 2. Nhận định vấn đề và truy tìm sự thật.
Nội dung
1. Duyên khởi câu chuyện xuất gia của Mahāpajāpatī Gotamī
Theo nguồn sử liệu ghi chép, vào năm thứ năm sau khi thành đạo, Đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la-vệ để thăm phụ vương Suddhodana sắp lâm chung. Sau khi vua mất, Di mẫu Gotamī nghĩ không còn gì ràng buộc nên có ý định xin Đức Phật xuất gia. Song, Đức Phật đã không nhận lời ngay thời điểm đó.
Cụ thể, trong Kinh Tăng Chi Bộ, phẩm Gotamī đã thuật lại câu chuyện mang tính lịch sử trên. Sau đây xin trích một đoạn đối thoại giữa Di mẫu Gotamī và Đức Phật như sau: “Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Thôi vừa rồi, này Gotamī, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng1”. Di Mẫu Gotamī đã ba lần xin với những lời thỉnh cầu tha thiết nhưng Đức Phật đều từ chối. Không từ bỏ ý định xuất trần, Di Mẫu Gotamī với đôi chân trần kiên định đã tiếp tục bộ hành đoạn đường từ Kapilavatthu đến Vesali dài 150 dặm (gần 250km) khi Đức Phật cùng chư Tăng đang trú ở đó. Trong kinh lại dẫn rằng: “Thế Tôn ở Vesali, tại Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahāpajāpati Gotamī, với tóc cạo sạch, đắp áo cà sa, cùng với nhiều nữ nhân Sakya ra đi đến Vesali, tiếp tục bộ hành và đến Vesali, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahāpajāpati Gotamī, với chân bị sưng, tay chân lấm bụi, khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than đứng ngoài cửa chính2”. Cho thấy, lần này bà quyết tâm xin xuất gia bằng được cùng với dẫn theo nhiều nữ nhân hoàng tộc đến với bộ dạng thê thảm: Chân sưng tấy, thân lấm bụi, Di Mẫu khổ đau sầu muộn, nước mắt giàn giụa tha thiết cầu xin Đức Phật cho được xuất gia. Trải qua bao lần thỉnh cầu không thành, bà vẫn kiên trì, lòng không lay chuyển. Tình cảnh ấy khiến ai chứng kiến cũng động lòng, huống nữa là người thân cận của Phật. Tôn giả Ānanda thấy vậy vô cùng xúc động, liền đứng ra xin Phật cho Di Mẫu toại nguyện.
Mặc dù, Tôn giả Ānanda đã rất nhiệt tâm qua ba lần cầu thỉnh nhưng Đức Phật vẫn từ chối. Do đó, Tôn giả Ānanda bằng nghĩ ra phương cách khác để tiếp tục xin đức Thế Tôn. Tiếp đến, Tôn giả đến bên Đức Phật kể lể, nhắc lại công ơn nuôi dưỡng của Di Mẫu đối với Thế Tôn để Ngài nhớ ơn đó mà cho Di Mẫu được xuất gia: “Bạch Thế Tôn, Mahāpajāpatī đã giúp đỡ Thế Tôn rất nhiều trong vai người dì, người vú, người kế mẫu, khi mẹ của Thế Tôn mệnh chung, lại cho Thế Tôn bú sữa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng3”. Dầu tha thiết cầu xin nhưng Ānanda vẫn không lay chuyển được quyết định của Thế Tôn.
Không từ bỏ ý định đó, Tôn giả Ānanda lại tiếp tục bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, không biết nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, có được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả không?”. Theo đó, Đức Phật trả lời rằng: “Này Ānanda, sau khi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả4”.
Câu trả lời của Thế Tôn đã xác chứng khả năng thành tựu Thánh quả giải thoát giữa người nam và người nữ là bình đẳng như nhau. Thế rồi, đức Thế Tôn đã cho phép người nữ xuất gia với điều kiện phải tuân thủ và trọn đời không vượt qua “Tám Kính Pháp”.Đồng thời, Đức Phật cũng nói cho Ānanda biết những mặt bất lợi khi người nữ gia nhập Tăng đoàn như: Nếu như người nữ xuất gia thì thời kỳ chánh pháp sẽ giảm 500 năm và hình ảnh người nữ xuất gia ví như gia đình có nhiều phụ nữ, ít đàn ông, dễ bị các đạo tặc, trộm cắp xâm nhập; như một đám ruộng lúa sắp chín bị mưa đá làm tổn hại; như ruộng mía vào lúc đã chín gặp phải bệnh thối đỏ thân làm tổn hại… Người nữ xuất gia tổn hại chánh pháp, khiến cho chánh pháp không thể tồn tại và nhanh chóng bị diệt tận cũng giống như vậy5. Vì những lý do như trên, cho nên, Thế Tôn ngay từ ban đầu đã từ chối lời thỉnh cầu xin xuất gia của Gotamī.
2. Những lý do Đức Phật từ chối người nữ xuất gia
Dựa trên văn bản kinh này, cho biết những thông tin sau: Di mẫu Mahāpajāpatī Gotamī đến xin Đức Phật cho người nữ được xuất gia tu học trong giáo pháp của Ngài. Tuy nhiên, ban đầu Đức Phật đã sẵn sàng từ chối vì xét thấy cho phép nữ giới gia nhập vào Tăng đoàn thì chánh pháp sẽ không tồn tại được lâu dài. Thế nhưng, sau đó qua sự cầu khẩn chí tâm, nài nỉ chí thành với hành động đi bộ đoạn đường hơn 250km của Di mẫu và gần 500 người nữ để nói lên ý chí quyết tâm xin Đức Phật cho xuất gia. Cùng với sự hỗ trợ nhiệt tình và khôn khéo của Tôn giả Ānanda thông qua câu hỏi chốt điểm “Người nữ tu tập có hay không có khả năng đắc Thánh quả?” của Tôn giả Ānanda đã buộc lòng Đức Phật phải cho người nữ xuất gia. Nhưng Ngài phải đặt ra “Tám Kính Pháp” để ngăn ngừa những gì sẽ phát sinh trong tương lai của người nữ.
Nhìn từ sự kiện trên, nếu xét theo ý nghĩa thông thường cho thấy Đức Phật không những đã có tâm phân biệt kỳ thị nữ giới, mà Ngài còn là một người thiếu lòng từ bi, hay nói đúng hơn là kiểu người thích được cầu khẩn, năn nỉ. Bởi vì qua ba lần cầu xin của Gotamī, Đức Phật vẫn kiên quyết không cho người nữ xuất gia. Sự việc kéo dài mãi đến khi Tôn giả Ānanda đem công nuôi dưỡng của Di Mẫu ra kể lể, nài nỉ nhiều phen. Sau đó, còn đặt câu hỏi về vấn đề “bình đẳng trước sự chứng đắc Thánh quả” giữa nữ giới và nam giới khiến cho đức Thế Tôn không còn đường thoái thác, bất đắc dĩ phải cho người nữ xuất gia. Tuy nhiên, nếu phân tích bản kinh trên ở nhiều góc độ liên ngành như Triết học, tư tưởng, văn hóa, lịch sử, xã hội học thì sự kiện trên mang ý nghĩa hoàn toàn khác.
Thứ nhất, dưới góc độ xã hội và sinh hoạt của Tăng đoàn thời Đức Phật
Về vấn đề này được đề cập trong bài viết “Nữ tánh A-la-hán” và bài giảng “Tại sao Phật từ chối không cho người nữ xuất gia6”, Thượng tọa Tiến sĩ Thích Hạnh Bình đã nhận định rằng: Sở dĩ Đức Phật không thu nhận người nữ vào Tăng đoàn: “Lý do chủ yếu là vì cuộc sống Tăng đoàn đương thời theo lối du hành vô gia cư, Tỳ-kheo có thể sống ở trong rừng, nghỉ dưới gốc cây. Nhưng cách sống này đối với người nữ mà nói là rất nguy hiểm. Hơn nữa Tăng, Ni sống chung lâu ngày phát sanh vấn đề tình cảm nam nữ. Do đó, Thế Tôn càng đắn đo về người nữ xuất gia”. Theo quan điểm này, nguyên nhân Đức Phật không cho người nữ xuất gia là sợ họ gặp nguy hiểm về tánh mạng cũng như về tiết hạnh, danh tiếng của họ không phải vì lý do “trọng nam khinh nữ” như mọi người đã lầm tưởng.
Ngoài ra, luận điểm trên phù hợp với nội dung các bản kinh như: kinh số 17 Kinh Khu Rừng thuộc Kinh Trung Bộ, tương đương với kinh số 107 Kinh Lâm thuộc Trung A Hàm và kinh số 4 Kinh Sợ Hãi Và Khiếp Đảm của Trung Bộ kinh tương đương kinh số 77 Kinh Sa Kê Đế Tam Tộc Tánh Tử thuộc Trung A Hàm. Vì nội dung của những bản kinh này đều đề cập đến trú xứ tu tập của các vị Tỳ-kheo là những khu rừng do thời gian đầu các vị sống dưới hình thức vô gia cư chủ yếu ở dưới gốc cây và “không ở dưới gốc cây quá ba đêm”. Như đã biết, thời gian đầu trong Tăng đoàn chưa có hình thức sống định cư tại các tịnh xá.
Lại nữa, để chứng minh Đức Phật không kỳ thị nữ giới bài viết của Thượng toạ Thích Hạnh Bình còn dẫn chứng một đoạn trong Kosala-Samyutta thuộc Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikāya) như sau: “Này nhân chủ, ở đời. Có một số thiếu nữ. Có thể tốt đẹp hơn. So sánh với con trai. Có trí tuệ, giới đức. Khiến nhạc mẫu thán phục. Rồi sinh được con trai, là anh hùng, quốc chủ. Người con trai như vậy của người vợ hiền đức. Thật xứng là Đạo sư. Giáo giới cho toàn quốc7”. Nội dung bài kệ này, Đức Phật khuyên vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) không nên buồn rầu vì Mallika (Mạt-lợi) phu nhân vừa hạ sanh một cô công chúa. Bởi vì giá trị và vai trò của người nữ trong xã hội cũng quan trọng không kém gì nam giới. Nhưng do vì xã hội Ấn Độ in đậm lối tư duy định kiến “trọng nam khinh nữ” nên nhân sự việc này mà Đức Phật muốn nói lên tiếng nói bình đẳng giới tính lẫn vị trí, vai trò và đồng thời đề cao cũng như bảo vệ những giá trị thiêng liêng của người nữ.
Thiết thực hơn, Ngài thể hiện quan điểm này bằng hành động cụ thể, tức là cho giới nữ xuất gia, sinh hoạt bình đẳng trong Tăng đoàn. Đồng thời, Đức Phật khẳng định người nữ cũng có thể chứng Thánh quả A la hán. Điều này được ghi lại trong Trưởng lão Ni kệ (Therīgāthā) về minh chứng sống động qua hình ảnh chứng ngộ giải thoát của các bậc Trưởng lão Ni dưới thời Đức Phật.
Tuy nhiên, có thể nói sự kiện Đức Phật cho người nữ xuất gia đã đi ngược lại quan điểm truyền thống lâu đời, cố hữu trong dòng chảy lịch sử tư tưởng Ấn Độ. Do đó, không chỉ riêng Đức Phật mà người nữ bấy giờ chịu những sức ép từ sự lên tiếng chỉ trích của xã hội rất lớn. Thậm chí, ngay cả trong Tăng đoàn cũng có một bộ phận Tỷ-kheo phản đối gắt gao, điển hình là Tôn giả Kassapa (Ca Diếp). Trong Kinh tạng và Luật tạng thuộc hệ Nam truyền có nhiều ý kiến khác nhau về lý do ngài Ca Diếp không đồng tình chấp thuận cho người nữ xuất gia của Đức Phật và Tôn giả A-nan. Điểm này được thấy sau khi Đức Phật Niết-bàn thì ngài Ca Diếp trong cuộc kết tập lần thứ nhất đã kết tội A-nan phạm Đột-kiết-la. Vấn đề trên cho đến nay vẫn chưa học giả nào làm sáng tỏ căn nguyên gì ngài Ca Diếp ngăn cản sự kiện đó.
Trước tình hình đó, dĩ nhiên đức Thế Tôn phải cân nhắc kỹ lưỡng trước dư luận đặt ra của cộng đồng xã hội và phải chuẩn bị những điều kiện sống cần thiết về cơ sở vật chất chỗ cư trú trước khi cho người nữ xuất gia. Kết quả người nữ cũng được xuất gia và Ni đoàn bắt đầu hình thành. Giờ đây, trong hội chúng của Đức Phật có bốn chúng gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ. Nói lên lời phát nguyện khi nào đủ bốn hội chúng thì Đức Phật sẽ nhập Niết-bàn. Mặt khác, điều này chứng tỏ sự thử thách để đánh động dư luận xã hội đương thời của Đức Phật và Tôn giả A-nan trong việc cho người nữ xuất gia là một điều hợp lý. Sự kiện này không những tạo điều kiện cho giới nữ có cơ hội học Phật pháp, nỗ lực tu tập để thành tựu giác ngộ giải thoát mà nó còn mang ý nghĩa cao cả trong việc kêu gọi bình đẳng về giới tính, xóa bỏ thái độ thiên kiến “trọng nam khinh nữ”, nhằm giải phóng biết bao người phụ nữ thoát khỏi nỗi đau khổ tủi nhục do quan niệm sai lầm này gây ra. Có thể thấy, đây là cuộc cách mạng giới tính đầu tiên trong lịch sử nhân loại được Đức Phật, một bậc vĩ nhân triển khai thực hiện và đạt kết quả thành công.
Như vậy, thông tin trên chứng minh một điều rằng với tuệ giác của một bậc Toàn Giác, đức Thế Tôn không hề có sự phân biệt đối xử hay kỳ thị với nữ giới. Và qua đây, những lời khẳng định của Thế Tôn được lưu trữ trong kinh tạng và luận tạng đã xác chứng điều đó. Do vậy, mỗi người không nên bị hạn cuộc nơi ngôn ngữ khái niệm và tư duy ngã tướng mà nhận định, đánh giá sai vấn đề. Thực tế, phải đi sâu vào ý nghĩa của nó ngang qua liên đới đối chiếu với hoàn cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa của Ấn Độ lúc bấy giờ.
TKN. Trung Bảo Giác Ngọc (ĐSHĐ-143)
- Thích Minh Châu dịch (2020), Kinh Tăng Chi Bộ, Viện NCPHVN ấn hành, NXB. Hồng Đức Hà Nội, tr. 1002.
- Thích Minh Châu dịch (2020), Sđd, tr. 1002 – 1003.
- Thích Minh Châu dịch (2020), Kinh Tăng Chi Bộ, Viện NCPHVN ấn hành, NXB. Hồng Đức Hà Nội, tr. 1004.
- Thích Minh Châu dịch (2020), Sđd, tr. 1004.
- Thích Minh Châu dịch (2020), Sđd, tr. 1005
- Thích Hạnh Bình, Thích Huệ Hải dịch (2019), Nghiên cứu khái niệm A-la-hán trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Trung tâm Nghiên cứu Phật học Hán truyền, NXB. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 327.
- Thích Minh Châu dịch (1993), Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, Viện NCPHVN ấn hành, tr. 194.