Trên cơ sở giới thiệu chung về Phật giáo thời Lý – Trần, bài viết trình bày mô hình Phật giáo đời Trần, một mô hình Phật giáo nhất tông, mang bản sắc văn hóa Việt. Từ đó, bài viết nêu lên một vài suy nghĩ về sự phát triển của Phật giáo Việt Nam hiện nay trong thời đại hội nhập và phát triển, xứng đáng là một Phật giáo nhập thế, luôn đồng hành cùng dân tộc, thực hiện phương châm: Phật pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội.
1. Mở đầu
Phật giáo Ấn Độ đã truyền vào Việt Nam từ rất sớm, có thể là từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên hoặc trước đó. Hơn hai ngàn năm tồn tại và phát triển, Phật giáo Việt Nam luôn gắn bó và đồng hành với dân tộc, đã ảnh hưởng sâu đậm trong mạch sống của dân tộc ở nhiều phương diện, trong đó có văn hóa – tư tưởng.
Phật giáo Việt Nam đã phát triển và thịnh đạt ở đỉnh cao vào thời đại Lý – Trần. Đây là thời đại thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng; thời đại phục hưng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc để phát triển đất nước và là thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ. Thời đại này đã hình thành nền văn hóa Thăng Long rực rỡ, đã làm nên một cột mốc, một dấu ấn quan trọng khó có thể gặp lại trong lịch sử văn hóa – tư tưởng Việt Nam, mà nền văn hóa đậm chất nhân văn ấy gắn liền với Phật giáo. Hào khí của thời đại Lý – Trần có được cũng hình thành từ nền văn hóa Thăng Long này.
2. Phật giáo đời Trần với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – một biểu hiện của giáo hội Phật giáo nhất tông
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo thời Lý – Trần nói riêng thì Phật giáo đời Trần đã phát triển cực thịnh. Lần đầu tiên, sau hơn một ngàn năm tồn tại, Phật giáo Việt Nam dưới đời Trần mới thành lập một giáo hội Phật giáo thống nhất: Phật giáo nhất tông. Và lúc này, các Tăng Ni đều được Nhà nước cấp độ điệp (giấy chứng nhận tăng tịch).
Giáo hội Phật giáo nhất tông đời Trần gắn liền với sự thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử bằng cách sáp nhập và dung hợp ba Thiền phái đã có ở nước ta trước đó là:
Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi (thế kỷ VI), Thiền phái Vô Ngôn Thông (thế kỷ IX) và Thiền phái Thảo Đường (thế kỷ XI). Quá trình thành lập Giáo hội Phật giáo nhất tông này không phải là việc làm tự phát, ngẫu nhiên mà là cả một quá trình suy tư trăn trở để lựa chọn từ Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ đến Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông.
Người thành lập giáo hội Phật giáo nhất tông này là Đệ nhất Tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Nhưng người đặt nền móng quan điểm tư tưởng cho Thiền phái này là Trần Thái Tông, mà sử sách đã tôn vinh Ngài là “bó đuốc sáng của Thiền học đời Trần”. Có thể xem tư tưởng của Ngài là kim chỉ nam dẫn đường để Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được thành lập và phát triển. Bên cạnh, cần phải nhắc đến vai trò của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung với tư cách là người trao truyền tâm pháp cho Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Như đã nói, trước khi thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thì Phật giáo Việt Nam đã có ba dòng Thiền đang tồn tại và phát triển. Về nguồn gốc thì ba dòng Thiền này đến từ ba nguồn khác nhau trên cơ sở của ba mối giao lưu – tiếp biến, từ đó mà Phật giáo phát triển.
Một là, trong giai đoạn đầu tiên, Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học từ Nam Ấn trực tiếp truyền sang bằng đường biển vào nửa cuối thế kỷ thứ I trước công nguyên với kinh văn hệ Bát nhã. Đây là con đường giao lưu trực tiếp giữa Việt Nam với Ấn Độ.
Hai là, sang giai đoạn tiếp theo, Thiền tông Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi đến Việt Nam bởi vai trò của ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi vào thế kỷ thứ VI với tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu – vô. Dù vị Thiền sư này đắc pháp ở Trung Quốc, được Tổ Tăng Xán ấn chứng, nhưng tư tưởng Thiền của Tỳ-ni-đa-lưu-chi lại không chịu ảnh hưởng Thiền tông Trung Quốc, mà vẫn giữ truyền thống Thiền của vùng Nam Ấn. Tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu – vô và chân không diệu hữu mà thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi trao truyền cho các đệ tử của Ngài là tư tưởng trong kinh văn hệ Bát-nhã, tức một dạng tiếp tục và phát triển tư tưởng Phật giáo Đại thừa ở giai đoạn đầu.
Ba là, ở giai đoạn cuối, Thiền tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam bởi vai trò của ngài Vô Ngôn Thông vào thế kỷ thứ IX với pháp môn Đốn ngộ và tư tưởng Phật tại tâm. Đến đây, với Thiền phái này, nếu xem xét trên bình diện cách thức tu tập thiền định, hình thức truyền thừa và quan niệm tư tưởng thì có thể thấy Thiền phái này hoàn toàn mang dấu vết, bản sắc Trung Hoa, với những thanh quy thiền viện cụ thể và có truyền thống ghi chép lịch sử, tức ghi chép các thế hệ truyền thừa theo thứ bậc tôn ty. Điều này có nghĩa Thiền Phật giáo Ấn Độ đến đây đã tiếp biến qua lăng kính tư duy Nho giáo của Trung Quốc.
Tại sao ở thời đại Lý – Trần cha ông ta không chọn Nho giáo mà lại chọn Phật giáo làm ý thức hệ và dùng nó như là kim chỉ nam cho sự phát triển đất nước? Vấn đề này trước đây đã được các nhà nghiên cứu lý giải rồi, chỉ xin được nhấn mạnh thêm bởi đây là sự trăn trở lựa chọn có chủ đích của các bậc Tổ tiên. Và việc thành lập Thiền phái Trúc Lâm theo mô hình Giáo hội Phật giáo nhất tông cũng là sự lựa chọn có chủ đích của các vua nhà Trần, mà người đứng đầu Nhà nước cũng là người đứng đầu Giáo hội là một vị Vua – Phật: Phật hoàng Trần Nhân Tông. Mô hình kép Vua – Phật này thời bấy giờ cũng đã có ở một vài quốc gia Đông Nam Á lấy Phật giáo làm quốc giáo.
Cũng cần lưu ý là, Phật giáo thời Lý – Trần nói chung, Phật giáo đời Trần nói riêng với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo, nhập thế hành đạo nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc sống, hoà nhập với cuộc đời. Điều này còn cắt nghĩa tại sao ở ta thời nào cũng có những vị thiền sư tận tuỵ hy sinh cho đất nước, cho dân tộc và nhiều ngôi chùa lại thờ các vị anh hùng cứu nước, anh hùng văn hóa. Vì thế, Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần là một Phật giáo mang tính dung hợp và nhập thế cao, đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Khác với Thiền tông Ấn Độ và Trung Quốc, Phật giáo Thiền tông khi Việt Nam đã kết hợp với tín ngưỡng bản địa, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo pháp thuật nên mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay bay trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù cho cha, hay để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v.. Phật giáo thời Lý – Trần đã kết hợp với Mật tông. Hồi ấy có nhiều thiền sư đọc chú, tu luyện các phép Tổng trì Đà-la-ni của Mật tông. Mật tông được truyền vào nước ta sớm nhất là vào khoảng nửa cuối thế kỷ X mà chứng cớ là các cột kinh Đà-la-ni tìm thấy ở Hoa Lư (Ninh Bình). Mật tông thường pha trộn với tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam; đồng hoá những phương thuật của Đạo giáo pháp thuật, rồi ảnh hưởng trong quần chúng bằng phép chữa bệnh trừ tà. Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần còn kết hợp với Tịnh độ tông. Qua tín ngưỡng của nhân dân lúc bấy giờ, Tịnh độ tông đi vào quần chúng bằng con đường thuyết giáo từ bi, cứu khổ, cứu nạn, bằng cách dựng lên một cõi Tịnh độ, Tây phương cực lạc mà nơi đó có Phật A Di Đà sẵn sàng tiếp đón những người khi sống trên trần thế đã hành thiện tu phúc, niệm Phật, trai giới, cầu vãng sinh. Tịnh Độ tông còn dựng lên hình ảnh vị Bồ tát đắc đạo nhưng vì thương xót chúng sinh khổ não nên ở lại trần thế cứu vớt họ. Hình tượng vị Bồ tát này chúng ta thường gặp trong văn học dân gian: Phật bà Quán Thế Âm, tiêu biểu cho sức mạnh kỳ diệu và tình thương bao la. Không phải ngẫu nhiên mà Thiền phái Thảo Đường đời Lý đã xây dựng chùa Một Cột (bên cạnh chùa Diên Hựu) với mái chùa cong vút, chạm hoa sen nghìn cánh, trong đó lại thờ đức Quán Thế Âm. Dù việc này được vua Lý Thánh Tông cho xây dựng trên cơ sở giấc mộng của Hoàng hậu Mai Thị. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Khoá hư lục được Trần Thái Tông biên soạn để tín đồ đọc tụng 6 lần trong một ngày đêm để giữ cho 6 căn (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý) được thanh tịnh (Lục thời sám hối khoa nghi) cũng chỉ vì Tịnh độ tông chủ trương tụng kinh niệm Phật để giữ tâm được lặng lẽ thanh tịnh; để sám hối tội căn kiếp trước và để rửa sạch tội lỗi hàng ngày mắc phải.
Nếu ở đời Lý để đáp ứng phần nào yêu cầu về ý thức hệ của thời đại, Lý Thánh Tông đã thành lập Thiền phái Thảo Đường thì các vua nhà Trần cũng vì yêu cầu của thời đại nên đã xây dựng một ý thức hệ độc lập. Cuộc ra đi của hai ông cháu nhà Trần là minh chứng hùng hồn cho việc xây dựng trên. Nếu cuộc ra đi của Thái Tông không trọn vẹn, thì cuộc ra đi của Nhân Tông đã toại nguyện và nhà vua đã tiến hành công việc này một cách vững chắc, toàn diện và triệt để. Kết quả là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời với hệ thống tổ chức và kinh sách như một tôn giáo độc lập. Tìm hiểu hệ thống Thiền học Trúc Lâm Yên Tử không chỉ đơn thuần là tìm hiểu giáo chỉ của ba vị Tổ: Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang mà còn phải tìm hiểu tư tưởng cùng vai trò đóng góp của các nhân vật đặt nền tảng trước đó là Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Quốc Tung.
Trên cơ sở tư tưởng dân chủ, rộng mở và phóng khoáng cùng tinh thần từ bi, vô ngã vị tha, tinh thần bình đẳng không phân biệt của nhà Phật, kết hợp cách ứng xử linh hoạt mềm dẻo dễ thích nghi của cư dân lúa nước Việt Nam, các vị vua nhà Đinh, Tiền Lê, Lý và nhất là nhà Trần đã thấy rõ khả năng dung hợp này của Phật giáo nên đã chọn Phật giáo Thiền tông làm ý thức hệ chính thống, gần như là quốc giáo. Các vị đã nhận thức rõ tư tưởng của Phật giáo Thiền tông mang tính ưu việt hơn nếu so với các hệ tư tưởng khác trong công cuộc ổn định để phát triển đất nước, trong việc truyền bá rộng rãi giáo lý từ bi, tinh thần bình đẳng trong quần chúng nhằm củng cố đoàn kết toàn dân để tạo nên sức mạnh tổng hợp của thời đại, của dân tộc. Phật giáo nhất tông đời Trần với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã đáp ứng tốt yêu cầu trên của thời đại mà lịch sử gần hai trăm năm của nhà Trần đã chứng minh. Rõ ràng là mô hình Phật giáo nhất tông đời Trần đã thống nhất được ý thức hệ của thời đại; biểu lộ tính độc lập và mang bản sắc Đại Việt rõ nét; một Phật giáo nhập thế tích cực, tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, chủ trương Phật tại tâm; và có một hình thức của một Phật giáo mới của riêng Đại Việt.
Việc Phật hoàng Trần Nhân Tông không chọn nơi nào khác mà đã chọn đỉnh cao Yên Tử làm non thiêng thánh địa của Phật giáo Đại Việt bởi nơi đây không chỉ là thắng tích tịch tịnh, giúp người tu hành dễ nhập tâm vào thiền định và hòa đồng cùng với vũ trụ, mà dưới tầm nhìn xa rộng của Ngài, đây còn là pháo đài, là tiền đồn phòng ngự để ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược đại Hán nếu chúng đến từ mạn Đông Bắc Đại Việt. Việc lựa chọn này của Phật Hoàng đã gắn chặt thêm mối quan hệ tương hỗ Đạo và Đời, Đạo pháp và Dân tộc, làm nên một đạo Phật nhập thế tuyệt vời và có như thế mới tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân để làm nên những chiến công kỳ vĩ mà lịch sử đã ghi dấu.
Với những mục đích trên, Thiền phái Trúc Lâm đã có những thành tựu rõ rệt. Bản thân và hành trạng của vị sơ tổ Trúc Lâm đã là minh chứng cho một giáo chủ của Thiền phái mới này. Trần Nhân Tông được tôn vinh là Phật Hoàng với những truyền thuyết: Phật giáng sinh (Biến Chiếu Tôn), Thần Tiên giáng trần (Kim Phật Kim Tiên đồng tử). Thái tử Khâm – Trần Nhân Tông một vị vua, một giáo chủ, một vị anh hùng. Xưng là Phật vì sáng lập ra tôn giáo mới, gọi là Tiên vì phong cách tiêu dao kiểu Lão – Trang. Nói là người anh hùng vì đã chỉ huy đánh tan giặc Nguyên Mông hung hãn. Cuộc đời hành đạo của Trần Nhân Tông chẳng khác nào đức Phật Thích Ca khi xưa. Trần Nhân Tông bỏ ngôi vào Yên Tử sơn, tắm ở Ngự Dội, thiền định dưới gốc cây tùng như thái tử Tất Đạt Đa, từ giã cung vàng điện ngọc vào Tuyết sơn (Hymalaya), tắm ở sông Ni Liên Thuyền Na, ngồi thiền định dưới gốc cây Tất Bát La (Bồ Đề). Sau khi đắc đạo, Trần Nhân Tông dắt hai môn đệ là Pháp Loa, Huyền Quang đi thuyết pháp ở Sùng Nghiêm, Siêu Loại như đức Thích Ca dẫn dắt ngài Ca Diếp và A Nan Đà đi thuyết pháp khi ở Lộc Uyển, lúc ở thành Vương Xá, ở vườn cây của Kỳ Đà và trưởng giả Cấp Cô Độc v.v.. Nếu đức Thích Ca nhập diệt trong tư thế nằm nghiêng, tay phải gối đầu, tay trái duỗi thẳng theo thân (tư thế nhập Niết bàn) thì Nhân Tông hoá theo kiểu sư tử ngoạ. Tóm lại, để trở thành giáo chủ mới, Nhân Tông đã mô phỏng lại việc làm của đức Phật Thích Ca ngày xưa. Không phải ngẫu nhiên mà Nhân Tông cho xây dựng hệ thống kiến trúc Yên Tử thành ba bậc chính: Giải Oan, Vân Yên, Vân Tiêu và trên cùng là bia chữ Phật hòa nhập trong không gian bao la để tượng trưng cho ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và bia chữ Phật kia tượng trưng cho Giải thoát. Đây chính là biểu hiện quan niệm của Thiền phái Trúc Lâm. Tất cả là cơ sở để có thể tìm hiểu tư tưởng của Thiền phái này. Điều thuận lợi là ba vị Tổ Trúc Lâm và những vị đặt nền móng về tư tưởng cho Thiền phái đều có trước tác để lại, dù đã bị mất cũng khá nhiều, hiện chỉ còn một số, nên qua đó ta cũng có thể hiểu được tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm tương đối có hệ thống. Thư tịch cổ cho biết Trần Thái Tông viết khá nhiều, nhưng hiện chỉ còn Khoá hư lục, Thiền tông chỉ nam tự, Lục thì sám hối khoa nghi, Phổ thuyết, Luận văn, Ngữ lục, Niêm tụng kệ (tất cả được người đời sau khắc in trong Khóa hư lục) và một ít bài thơ; Tuệ Trung Thượng Sĩ thì còn thơ, kệ và Thượng sĩ ngữ lục (Đối cơ, tụng cổ); Trần Nhân Tông soạn Thạch Thất mỵ ngữ, Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục, Tăng già toái sự, Đại Hương Hải ấn thi tập, Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền đạo ca; nhưng hiện chỉ còn một bài phú, một bài ca và ngữ lục Sư đệ vấn đáp, bài văn Thượng Sĩ hành trạng, cùng một số bài kệ, 32 bài thơ, một số văn thư ngoại giao; Pháp Loa viết Đoạn sách lục, Tham Thiền chỉ yếu, hiện chỉ còn vài bài thi kệ tán, một bài văn Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn, một ngữ lục Trúc Lâm đại tôn giả thượng tọa thính sư thị chúng; Huyền Quang trước tác Ngọc tiên tập cả nghìn bài, Vịnh Vân Yên tự phú và soạn Phổ Tuệ ngữ lục, hiện chỉ còn một bài phú và 24 bài thơ.
Xét nội dung triết lý tư tưởng phái Trúc Lâm chủ yếu là phải khảo sát Khoá hư lục và Thượng sĩ ngữ lục cùng Thiền tông chỉ nam tự vì qua một số tác phẩm còn lại của ba vị Tổ Trúc Lâm, về nội dung tư tưởng cơ bản là nhất trí với hai vị có công đầu trong việc đặt nền móng quan điểm tư tưởng cho sự hình thành Thiền phái này.
Khoá hư lục là một bản kinh Phật đời Trần dùng để đọc tụng sáu lần trong một ngày đêm, mỗi lần đọc tụng nhằm giữ một trong sáu căn cho thanh tịnh. Đây là phần thực dụng của kinh. Bên cạnh phần lý thuyết trình bày quan niệm của Thiền phái về vấn đề cơ bản của đạo Phật như Phật, Tâm, Thiền, Nhân sinh, Nguyên nhân của mọi khổ đau và Giải thoát. Nếu Thiền tông truyền thống thường thực hành Thiền định chứ không chú trọng Niệm, thì Thiền Trúc Lâm đã kết hợp cả hai: Thiền định và niệm Phật. Một sự kết hợp giữa Tịnh độ tông và Thiền tông. Thiền Trúc Lâm ít nhiều còn có pha tạp màu sắc Đạo giáo, chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão – Trang. Một số bài kệ thi của Tuệ Trung như Sinh tử nhàn nhi dĩ, Phóng cuồng ngâm vài đoạn trong Khoá hư lục, Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là những dẫn chứng cho nhận định trên.Còn đây là sự kết hợp tư tưởng Lão – Trang trong con người thiền sư với thú tiêu dao, tự tại, hòa đồng thiên nhiên chẳng khác nào một đạo sĩ ung dung, xem đời như giấc mộng:
– Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý,
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chú tri âm.
[Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, KHXH, HN, 1988, tr. 505]
– Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao,
Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hý.
[Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, KHXH, HN, 1988, tr. 505]
– Y cẩu phù vân biến thái đa,
Du du đô phó mộng Nam kha.
(Cuộc đời như đám mây nổi luôn đổi thay nhiều vẻ,
Mơ màng đành phó cho giấc mộng Nam kha).
[Tuệ Trung, Thế thái hư huyễn, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, KHXH, HN, 1988, tr. 250]
Quay về với thiên nhiên là cách để các vị xa lánh cõi đời, để diệt dục, giúp cho tâm thanh tịnh mà hành Thiền, chứ không ngoài mục đích nào khác.Bàn về Phật, Trúc Lâm chủ trương “Phật không có trong núi mà chỉ có trong lòng.” (Thiền tông chỉ nam tự); nếu “Lòng lặng lẽ mà biết, chính là Phật vậy.” (Thiền tông chỉ nam tự). Trúc Lâm đã kế thừa tư tưởng của Huệ Năng “Phật và Thánh vốn không khác gì nhau” trong Pháp bảo đàn kinh và bổ sung thêm, tuy Phật và Thánh với hai con đường khác nhau nhưng cả hai cùng đưa con người đến một mục đích, từ đó Thiền phái Trúc Lâm chủ trương Phật, Thánh phân công hợp tác (Thiền tông chỉ nam tự).
Như vậy, theo Trúc Lâm, Phật chính là ta, là tâm. Một quan niệm đồng nhất trong sai biệt. Nhờ quan điểm này mà Thiền phái Trúc Lâm gần gũi với tư tưởng Thiền nguyên thuỷ hơn, dĩ nhiên, Trúc Lâm cũng có những kiến giải của riêng mình. Trần Nhân Tông đã phát biểu:
– Chỉn bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.
– Vậy mới hay: Bụt ở cùng nhà, chẳng phải tìm xa.
– Nhân khuy bản ta nên tìm Bụt; đến cóc hay chỉn Bụt là ta.
[Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, KHXH, HN, 1988, tr. 505]
Phật là tâm. Tâm là một cái gì trừu tượng như Phật tính: “Tâm vương vô tướng hựu vô hình” [Tuệ Trung, Tâm vương, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, KHXH, HN, 1988, tr. 237].
Trúc Lâm chủ trương muốn hiểu rõ tâm phải ngồi thiền. Ngồi thiền để tĩnh tâm, ngăn ác hướng thiện. Trúc Lâm không chọn con đường “Quán bích toạ thiền” như Tổ Đạt Ma từng thực hiện mà chủ trương “Niệm Phật, thụ giới và toạ Thiền”. Niệm Phật là cách tự giáo dục, tự ức chế để giữ miệng và tâm thanh tịnh. Thụ giới là cách răn giữ bản thân theo giới luật nhằm để cho thân trong sạch và không làm điều ác. Niệm Phật, thụ giới, toạ thiền là cách giữ cho thân, khẩu, tâm (ý) của người học đạo không thể làm, nói, nghĩ đến điều ác. Điều ác không sinh tức điều thiện phát khởi. Có lẽ vì thế mà Trần Thái Tông soạn Khoá hư lục để người tu Phật tụng niệm. Khoá hư lục còn trình bày về năm giới răn của Phật mà người tu hành phải triệt để tuân theo. Có điều, qua việc trình bày giới luật, Trúc Lâm đã biến nó thành những bài học luân lý hơn là giáo lý nhà Phật, với mục đích nhằm bình ổn trật xã hội lúc bấy giờ. Khoá hư lục khuyên răn con người không được tham lam của cải, sắc đẹp, rượu nồng, thịt béo, công danh phú quý. Do lòng tham đó mà dẫn dắt người ta đi đến trộm cướp, bè phái, khinh vua, ghét cha, nhạo Tăng, chửi Phật… Khoá hư lục còn kêu gọi con người nên làm việc thiện, bố thí cho kẻ nghèo, thương yêu người khác, tôn trọng phép nước, kính cha thờ vua… Đây chính là cốt lõi nhập thế của đạo Thiền Trúc Lâm.
Thiền Trúc Lâm cũng phát biểu quan niệm về nhân sinh. Họ xem chuyện sống chết là thường tình và chấp nhận cuộc sống một cách khách quan, bài kệ Khuyến chúng của Trần Thái Tông: Sinh lão bệnh tử, Lý chi thường nhiên” (23); bài kệ của Trần Nhân Tông đọc cho Pháp Loa nghe trước khi tịch diệt: Nhất thiết pháp bất sinh, Nhất thiết pháp bất diệt. (24) đã chứng minh cho quan niệm này. Chính Tuệ Trung, người thầy của Nhân Tông, người có công đầu trong việc lập Thiền phái Trúc Lâm đã phát biểu: “Phù sinh tử, lý chi thường nhiên, an đắc bi luyến, ưu ngô chân dã.” (Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta ? – Thượng sĩ hành trạng).
Cuộc sống là một thực thể tồn tại khách quan không thể phủ nhận nên các thiền sư phái Trúc Lâm đều dửng dưng trước cái chết, xem cuộc đời là vô thường. Chết chỉ là một chặng đường khác. Như vậy, Thiền phái Trúc Lâm tiếp thu quan niệm nhân sinh của Đại thừa Phật giáo. Họ chấp nhận cuộc sống, cái chết mà không luyến tiếc. Các vị quan niệm không có gì sinh ra hay mất đi nên làm gì có việc đi và đến. Đó là quan niệm “thân ảo ảnh chẳng khác phù vân”, “Pháp thân thường trú, phổ mãn thái hư” của đệ nhất Tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Các vị cho rằng cái thân đang tồn tại là do dục. Diệt được dục tức thoát khỏi sinh tử. Quan niệm trên đã phản ánh một nhân sinh quan tương đối, không sa vào hai cực, không tham sống sợ chết một cách yếu đuối. Phải chăng do hào khí thời đại, do cuộc đấu tranh sinh tử của dân tộc trong thời Lý – Trần đã ảnh hưởng tới nhân sinh quan này? Có lẽ vì thế mà Thiền phái Trúc Lâm gần gũi với cuộc đời, với cuộc sống trần thế.
Tóm lại, do yêu cầu thời đại, Phật giáo nhất tông đời Trần với Thiền phái Trúc Lâm đã Đại Việt hoá, dân tộc hoá tư tưởng Thiền đạo và sáng tạo thêm một số tư tưởng cụ thể, sắc bén, thích hợp với hoàn cảnh Đại Việt lúc bấy giờ, làm nên bản sắc rất riêng của dân tộc, phần nào đáp ứng được yêu cầu của thời đại lịch sử xã hội. Ngoài tôn chỉ chung của Thiền là phá chấp, đốn ngộ, tâm truyền, thì Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần còn có những nét riêng như đưa Phật Thiền vào cuộc sống, phục vụ đất nước và nhân dân, tu dưỡng nhân cách con người. Thiền dung hợp với những yếu tố tích cực của Nho, của Lão – Trang để giúp con người phát triển toàn diện, phù hợp với sự phát triển của đất nước. Phật giáo Thiền tông Lý – Trần còn kết hợp với Tịnh độ tông và Mật tông cùng tín ngưỡng dân gian để phù hợp với thực tiễn và mang tính đại chúng. Riêng quan điểm tư tưởng của Thiền Trúc Lâm – một Phật giáo nhất tông đã tác động nhiều đến xã hội, giúp con người ta rèn luyện luân lý đạo đức hơn là tôn giáo, góp phần duy trì bình ổn xã hội Đại Việt thời đó, để tạo nên chiến công oanh liệt với ba lần đại thắng Nguyên Mông. Đồng thời, Phật giáo hồi này đã đào tạo nên những thiền sư tâm hướng về Phật mà lòng vẫn gắn bó với đời, với cuộc sống trần thế. Đó chính là “cư trần lạc đạo”. Có thể nói đây là một Phật giáo đầy sức sống mà tinh thần chung được Đệ nhất tổ Trúc Lâm Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đúc kết trong bài kệ ở cuối bài phú Cư trần lạc đạo: Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch, Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền. (Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên, Đói cứ ăn no mệt ngủ liền. Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm, Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền. [Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, tr.510]
PGS.TS. Nguyễn Công Lý (ĐSHĐ-005)
Sc Quảng Thảo diễn đọc