Giữa cuộc sống muôn màu muôn vẻ, phần lớn ai trong chúng ta cũng yêu thích chốn phồn hoa đô hội, thích sự sung túc, giàu sang… Nhưng để đạt được những điều như thế, thì phải vật vã, lăn lộn, tranh đấu hơn thua trong đời, có phải mệt mỏi lắm chăng? Dẫu cuộc sống mưu sinh là phải như thế, được mấy ai dám từ bỏ những thứ người khác phải cả đời kiếm tìm cũng chưa chắc gì được? Có như vậy hành giả tu đạo chúng ta phải biết Thiền sư Huyền Quang tuyệt vời đến mức nào! Để hiểu rõ hơn về Ngài chúng ta cùng nhau tìm về tác phẩm Vịnh Vân Yên Tự Phú do Thiền sư trước tác.
Trước khi đi vào nội dung của tác phẩm phú nôm này, chúng ta biết gì về tác giả? Sư tên Lý Đạo Tái, sanh năm Giáp Dần (1254 – 1334) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Cha là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, mẹ họ Lê là người hiền đức. Thuở nhỏ Sư dung nhan kỳ lạ, ý chí cao vời, Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên) lúc ấy được 21 tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả công chúa cho, Sư vẫn từ chối.
Sư được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục.
Sư mấy phen dâng biểu xin từ chức, để xuất gia tu hành. Chính vua Trần Anh Tông rất quý trọng Phật giáo, nên cuối cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, được pháp hiệu là Huyền Quang.
Niên hiệu Hưng Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Thiền sư Pháp Loa y theo lời phó chúc của thầy (sơ tổ Trúc Lâm), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ. Sư vâng lệnh làm trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người.
Sư thường phụng chiếu đi giảng Kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn,… Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả. Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ 80 tuổi.
Vua Trần Minh Tông phong thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Để hiểu rõ hơn nữa, về thiền sư Huyền Quang, chúng ta cùng nhau tìm về tác phẩm Vịnh Vân Yên Tự Phú, để xem Ngài dạy những gì, góp nhặt đạo lý mà ứng dụng giúp cho cuộc sống này có nhiều khởi sắc hơn.
詠雲煙寺賦
玄光禪師
𢭾念塵俗
耨細雲煙.
Dịch nghĩa:
Buông niềm trần tục;
Náu tới Vân Yên.
Hai câu phú Nôm đầu tiên, ý Ngài nói, bản thân đã buông đi những gì ở đời như: công danh, cuộc sống chốn quan quyền, cái mà người ta phải khổ sở để được, nhưng Ngài đã có, mà lại nhẹ nhàng bỏ đi, tìm đến chốn núi thiêng tu hành. Đây như một lời nhắn nhủ với tất cả chúng ta, nếu muốn tu thì phải thôi đi những gì trần tục, mới đến gần được với đạo. Qua đây ta thấy, vua Trần Nhân Tông cũng đã từng nói ở hội thứ nhất, trong tác phẩm Cư Trần Lạc Đạo Phú:
Mình ngồi thành thị;
Nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh;
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Các Ngài tuy ở những thời khác nhau nhưng đều có tâm tu hành và luôn hướng mình đến điều cao thượng từ bỏ trần lao, thích cảnh núi rừng làm chốn tu đạo, quả thật là tâm tâm tương ứng.
𪀄瑞唯㗂歌𪀄瑞
愈仙迻隊𨀈神仙.
Dịch nghĩa:
Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy
Gió tiên đưa đôi bước thần tiên.
Nghĩa là chim lành theo tiếng ca chim lành, gió thổi mát như cõi tiên, đi thong thả lên núi Hoa Yên, đã buông niềm trần tục, đi đến nơi tu đạo, khung cảnh nhẹ nhàng, đây là hai câu tả cảnh thiên nhiên, người tu rất cần đến sự tĩnh lặng trong sạch, thích hợp hơn ở chốn phồn hoa đô thị. Chúng ta cũng ngầm thấy sự tương ưng tùy theo sở nghiệp và phước báu của mỗi người, mà có cảnh tương ứng. Chim lành thì dõi theo tiếng chim lành, người tu hành thì tìm đến nơi tĩnh lặng, nghiệp nào thì ứng với cảnh đó, ấy cũng là sự tương ưng với nhau, nên cũng không có gì lạ. Ở cuộc sống thực tế điển hình, giữa thầy và trò nếu có sự tương ưng, khi thầy khởi ý, đệ tử liền hiểu. Nhưng không tương ưng, thì thầy có giải thích thế nào đi nữa, trò vẫn hiểu sai tâm ý của thầy, rồi sanh ra trách cứ đủ điều. Đó chỉ do tâm ta không tương ưng.
瓢董頂𢬥和世界
鞋從且道泣山川.
Dịch nghĩa:
Bầu đủng đỉnh dang hòa thế giới;
Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.
“Bầu” là cái bình đựng nước được làm từ vỏ trái bầu hình dạng như cái hồ lô, người xưa rất hay dùng, mỗi khi đi đường thì quảy bồ tre (cái giỏ làm bằng tre) đựng quần áo vật dụng và mang bầu đựng nước để uống. Ý nói khi đi mang bầu nước, vui vẻ hát vang khắp nơi, hòa mình cùng vạn vật, chân mang hài (giày) thong thả mà đi khắp núi rừng, suối nước. Chỉ người thanh thản, thong thả, quẳng gánh lo âu thì mới nhẹ nhàng như thế này thôi.
坦福地認䀡𨻫計
計包饒餘𤾓福地
𡗶禪天拾收所𨔍
𨔍軒巴邁𦒹禪天.
Dịch nghĩa:
Đất phúc địa nhận xem luống kể
Kể bao nhiêu dư trăm phúc địa
Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ
Lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên.
Hải Thuần Bảo Hải (ĐSHĐ-056)