Khi đối mặt với cuộc đời đầy biến động, cùng với những buồn vui thường tình của thế gian, con người dễ bị chính cảm xúc của mình chi phối và dẫn dắt. Cảm xúc hay cảm thọ là một phần vi tế trong tâm thức, nó được biểu lộ ra ngoài qua lời nói, hành động cử chỉ. Có những cảm thọ mang đến sự an lạc và thăng hoa, nhưng cũng có những cảm thọ gây nên họa hại cho chúng ta trong đời sống hiện tại và tương lai. Sân giận là một trong những khổ thọ nguy hại.
Giận…! danh xưng ấy để chỉ một trạng thái tâm thức con người đang bực tức, oán hờn. Nó đối lập với tâm bình lặng, nhu hòa thường có, giận dữ chẳng có chức năng nào khác ngoài việc gây hại cho chính chúng ta. Vì giận mà thốt lên những lời nói cay nghiệt khiến người khác bị tổn thương, cũng vì giận mà đánh mất sự tự chủ nơi bản thân. Thông thường khi nổi giận chúng ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, do người ấy khiến tôi giận, việc ấy ngoài ý muốn của tôi v.v… Những cơn giận vô lý ấy hủy hoại tâm an lạc và sự bình lặng trong mỗi người, đồng thời nó còn dung dưỡng cho một bản ngã tự tôn. Khi đổ lỗi cho hoàn cảnh chúng ta đã phớt lờ đi trách nhiệm của bản thân đối với tâm thức cấu nhiễm của mình.
Như thiền sư Ajahn Chah ví dụ về cây gai, thực chất tự cây gai không thể làm chúng ta đau đớn, nó đơn thuần chỉ là một cây gai. Khi giẫm phải gai, chân sẽ đau nhức, nhưng đau nhức là một hiện tượng của cảm giác, trong khi đó gai vẫn là gai nó không thay đổi hình dạng hay bản chất. Khi tiếp xúc với sự đau đớn, chúng ta vội vàng đổ lỗi tại cái gai nhưng quên mất rằng do chính mình bất cẩn giẫm phải gai nên đau đớn. Tương tự, sự sân giận chỉ là một cảm giác, nó xuất hiện khi tâm phân biệt và sự chấp ngã có mặt. Vì thế, cho dù ở bất kì nơi đâu, dù đang ngồi, đang đứng, hay đang đi nếu có sự bất như ý xảy đến lập tức tâm nóng giận bùng lên thiêu rụi rừng công đức.
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:“ tâm giận dữ nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức…; giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện pháp và danh tiếng đáng quý, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn, sự giận dữ hơn cả ngọn lửa ác liệt.” Sân giận như một nội thù truyền kiếp của con người, nó không chỉ gây hại trong đời hiện tại mà còn đưa chúng ta vào cảnh giới mê lầm ở tương lai. Trong kinh nghiệm sống hằng ngày ai cũng có thể thấy rõ những đau khổ, rắc rối từ sự giận dữ. Ví như trong cuộc nói chuyện với những người xung quanh, chỉ vì một lí do nào đó mà tranh luận gay gắt rồi sinh cãi vã, khi cơn giận nổi lên liền mất tự chủ, buông lời xúc phạm đối phương. Từ sân giận mà đánh mất chánh kiến dẫn đến những lời nói, hành động sai trái gây ra những chướng ngại và cả sự hối tiếc về sau. Do thế, trong kinh Hoa Nghiêm nói: “nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”.
Sân giận vốn là một phần của tâm niệm, nó phá hủy tâm hỷ lạc, đồng thời là một chướng ngại lớn gây sự bất an khó chịu cho những người xung quanh. Đôi khi chúng ta tức giận chỉ vì những điều nhỏ nhặt vô lý, chẳng hạn từ một việc làm bị người khác chê bai, từ một công việc không như ý muốn, từ một lời nói bâng quơ nào đó chúng ta bỗng dưng nhặt lấy đóng khung vào mình rồi suy tưởng phóng đại mà dưỡng nuôi tâm oán hờn. Nếu cứ dung dưỡng lòng căm hận thì nó không chỉ gây hại trong hiện tại mà còn hệ lụy đến cả đời sau. Như trong kinh Lương Hoàng Sám có nói: “Nếu người nào tánh khí sân si, khởi ra sanh nghiệp, ngày đêm luôn luôn thiêu đốt thân tâm không có giây phút nào tạm dừng nghỉ. Khi quả báo thành thục phải sa địa ngục, ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh…nếu được làm người thân hình xấu xí ai nhìn đều chán ghét.”
Chúng ta thấy rằng, giận dữ là một khổ thọ, cảm thọ ấy sinh khởi do tâm xúc chạm với duyên bên ngoài. Đó là một hiện tượng duyên sinh, khi thân tâm tiếp xúc với những điều bất như ý, lập tức sẽ có những phản kháng bực bội, từ đó làm cho các tập khí của sân giận ngày càng tăng trưởng. Để đối trị tâm sân giận chúng ta phải biết nhận diện và buông xả nó. Nếu không muốn sân tâm khởi lên, cách hay nhất là chúng ta ngăn ngừa nhân duyên phát sinh của nó. Điều đầu tiên chúng ta phải nhận ra được nguyên nhân châm ngòi lửa sân, nhận diện được tâm đang hiện hữu là thiện hay bất thiện để tăng trưởng hoặc từ bỏ. Các ý tưởng cùng những suy tư mang bóng dáng của tham dục và sân hận là bất thiện tâm. Người tu đạo cần ngăn chặn và từ bỏ dòng tâm thức ấy. Một khi đã suy tư, quán sát về những niệm khởi vận hành cùng tham dục là bất thiện tâm mà sanh tâm xấu hổ để từ bỏ thì tâm oán hờn cấu nhiễm không còn nơi bám víu để tồn tại, tâm chúng ta cũng nhờ đó mà lắng dịu sáng trong. Như ở trong kinh Song Tầm (Trung Bộ 1) Đức Phật dạy rằng: “Chư Tỳ- kheo, nếu Tỳ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm thì vị ấy từ bỏ sân tầm. Nếu Tỳ- kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị ấy từ bỏ hại tầm.”
Bên cạnh sự tư duy, quán chiếu về nội tâm thì một trong những phương pháp hữu hiệu để điều phục sân giận là thực hành hạnh nhẫn nhục. Nhắc đến công hạnh của nhẫn nhục trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có nói: “Người có trí tuệ thấy được sự tai hại của sân giận, nên thực hành hạnh nhẫn nhục, luôn phòng hộ chẳng cho nó thâm nhập vào tâm, nhân như thế mới có sức mạnh”. Sân và nhẫn có cùng một nguồn gốc nhưng trạng thái và cách vận hành theo hai chiều hướng đối kháng nhau. Nhẫn nhục ngược lại với sự tức giận, nếu tức giận thiêu cháy rừng công đức thì đức tính của nhẫn giúp con người có thêm sức mạnh chịu đựng để vượt qua khó khăn thử thách. Tâm từ nhẫn giúp con người chấp nhận được những khổ đau tưởng chừng như không thể.
Khi có khả năng chịu đựng được những điều bất công trái nghịch, tâm thức chúng ta sẽ dần chuyển hóa, biết lắng nghe, suy ngẫm để phân biệt được phải, trái, đúng, sai. Khi sân giận nổi lên, chấp ngã sẽ che mất chánh niệm dẫn đến những phán quyết sai lầm, nếu ngay lúc ấy thực hành nhẫn nhục để quán chiếu, nhằm xoa dịu cơn giận thì những hệ lụy của khổ đau, tức tối sẽ được giảm thiểu hoặc bị dập tắt. Để thực hành nhẫn nhục chúng ta có thể bắt đầu trải nghiệm từ việc chịu đựng những điều bất như ý nhỏ nhặt, như từ lời nói xúc não, từ những xung đột trong đời sống hằng ngay… Lấy ví dụ về cái gai, nếu chúng ta giẫm phải gai nhọn chắc hẳn sẽ rất đau đớn và oán giận.
Dù là vô tình giẫm phải gai nhưng sâu trong tâm thức tâm oán giận vẫn khởi sanh một cách vi tế, có thể đối tượng mà chúng ta giận tức chính là sự bất cẩn của bản thân mình. Nhưng nếu quán chiếu cái gai nhọn ấy là một mũi kim tiêm thuốc để chữa bệnh thì cho dù người khác có cố ý đâm vào da thịt chúng ta, cơn đau ấy vẫn dễ dàng được chấp nhận và chịu đựng. Cũng vậy, khi quán chiếu những điều bất như ý gây sân giận, khổ đau, hãy xem nghịch cảnh như một liều thuốc. Nó chính là chất xúc tác để xoa dịu tâm sân giận,và gạn lọc những tâm thức cấu nhiễm.
Trong một số trường hợp, nhiều người cho rằng chấp nhận chuyện oan ức, và nhục mạ là một thái độ nhu nhược, vì khi đó nhẫn chỉ thấy nhục. Hiểu như vậy không đúng với tinh thần chữ nhẫn trong giáo lý nhà Phật. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có đoạn Đức Phật dạy: “Có người nghe ta giữ đạo, thực hành lòng đại nhân từ nên đến mắng ta, ta làm thinh không đáp, người kia thôi mắng ta hỏi rằng:
– Ông đem lễ vật cho người, người kia không nhận, lễ vật ấy có về ông chăng?
Đáp rằng:
– Về chứ
Phật nói:
– Nay ông mắng ta, giờ ta không nhận thì ông tự chuốc lấy họa về thân ông rồi, cũng như âm vang theo tiếng, bóng vang theo hình, hẳn không hề rời nhau.” Âm vang theo tiếng, bóng vang theo hình, khi đã thấu triệt lý nhân quả, chúng ta chẳng cần phải giận dữ với những khổ đau do người khác mang lại. Có thể lý do mà chúng ta nhận chịu khổ đau trong ngày hôm nay là do đã từng gây hại cho người khác trong quá khứ. Do đó, việc chấp nhận những khổ hại trong hiện tại cũng là một phương thức trả nghiệp. Nếu không phải là trả nghiệp thì việc chúng ta giữ tâm điềm tĩnh, an nhiên với tấm lòng vị tha, bao dung cũng khiến cho đối phương an lạc, xua tan những chuỗi hận thù oan trái về sau.
Sân giận như một căn bệnh, là kẻ thù nội tại của tâm. Sự chánh niệm quán chiếu và nhẫn nhục như một liều thuốc để chữa lành căn bệnh ấy. Khi nhận thức được sự tai hại của sân giận, mỗi chúng ta cần quán chiếu để buông xả nó bằng lòng từ, nhẫn nhục để vượt qua mọi khổ đau ở hiện tại và cảm nhận được niềm an lạc trong pháp tu của chính mình.
An Phong (ĐSHĐ-009)