Kính dâng Giác linh Ân sư –
Hòa thượng thượng Hồng hạ Ân
Tình tính tang, tang tính tình, vừa đi vừa hát nghêu ngao, tay cầm bao ni lông đựng mấy con cá lia thia vừa bắt ở ruộng về. Những giọt sương đậu trên đầu ngọn cỏ, trên đồng lúa xanh rì đã bị tan biến bởi vụ càn quét vừa rồi của cô bé.
Vầng triêu dương ló dạng ở phương đông,
Ánh nắng ban mai trải mình trên vạn vật.
Cỏ xanh tươi nhuộm ở ven đường
Bao sương sớm tan dần trong nắng ấm.
Trên con đường khúc khuỷu quanh co, một vị Đạo sĩ đang chậm rãi bước từng bước khoan thai, theo sau gần mười vị Phật tử. Họ đi đâu? Với tính hiếu kỳ, cô bé chạy theo đoàn người đi bộ ấy. Vị Đạo sĩ dáng người cao mảnh khảnh, đôi mắt sâu nhưng sáng ngời. Bất giác vị Đạo sĩ nhìn ra bắt gặp cô bé đang nhìn mình, vị Đạo sĩ vẫy gọi: “Vào đi con”. Nghe vậy cô bé xích lại gần hơn, nhưng cũng còn đứng ngoài ngạch cửa. Vị Thầy trẻ tuổi dắt tay cô bé vào, Đạo sĩ xoa đầu hỏi qua tên tuổi, đưa mắt nhìn xuống tay cô bé, Đạo sĩ hỏi: “Con bắt cá làm gì vậy?”
– Bé lễ phép thưa: “Con bắt cá về nuôi”.
– Vị Đạo sĩ hỏi: “Con có muốn xa Mẹ con không? Con có biết cảnh “Cá chậu chim lồng” nó khổ lắm không?”
Cô bé rơm rớm nước mắt hối hận về việc làm của mình, im lặng một phút vị Đạo sĩ từ bi nhìn cô bé dạy: “Con thả chúng nó ra, cố gắng đi chùa quy y Tam Bảo, giữ gìn năm giới, con sẽ hết tội. Nếu con giữ giới con sẽ được các vị Thần ủng hộ và nhờ sức gia trì của Tam bảo con sẽ được hạnh phúc, vì Tam bảo là cội gốc phước điền, là nơi nương tựa tinh thần cho chúng sanh. Ngoài Phật, Pháp, Tăng ra không còn nhơn địa nào chơn chánh và thù thắng, để cho người đời dựa vào mà gieo trồng phước đức.”
Như người chết đuối vớ được cái phao, cô bé mừng quýnh thưa lia lịa.
– “Thưa ông, vậy con cũng muốn Quy y để khỏi tội, chừng nào con mới được Quy y?”
“Nay là ngày 8 tháng Chạp, hai giờ chiều này có lễ Quy y, nếu con muốn, về nhà xin cha mẹ rồi đến ghi tên, Thầy sẽ đặt pháp danh cho con.”
“Thưa ông, ờ… mà quên thưa Thầy con ghi tên liền cũng được. Con tên là Phạm Thị Hữu, Thầy đặt tên đạo cho con đi.”
Ngập ngừng vài phút, vị Đạo sĩ nhận lời, “à Thầy đặt tên cho con tên Tâm Bôi nhé”.
Tuy tuổi còn nhỏ bé chưa biết nhiều, nhưng tên Bôi thấy nó xấu làm sao ấy, im lặng chút xíu cô bé thưa:
– “Thưa Thầy, tên Bôi là tên… ” ấm ở một chập cô bé rặn thêm mấy tiếng nữa, giọng run run, “… là tên ông Nội của con.
Nhìn cô bé Thầy cười thật hoan hỷ, hai má hóp vào như hai đồng tiền, Thầy vừa cười vừa nói:
– “Tên Cha còn chưa nhớ, làm sao con biết được tên ông Nội của con, thôi để Thầy đặt tên lại cho con, tên Tâm Phước nhé. Tâm là tâm ngay thẳng của mình, Phước là phước đức cũng là phước duyên may gặp được Thầy.”
Mừng quá cô bé chịu ngay rồi xin phép chạy về nhà, ra đến ngạch cửa cô bé còn quay vào thưa:
“Thầy để tên ấy cho con, con về xin phép mẹ chiều con đến Quy y, Thầy đừng cho ai cái tên đó nghe Thầy.”
Chiều hai mẹ con dắt nhau đến chùa Quy y. Năm đó tôi chính là cô bé ấy được mười hai tuổi. Tôi tha thiết quì thẳng hai gối, tâm hồn lắng đọng. Ôi! Tuyệt vời làm sao, cái giờ phút thiêng liêng cao cả, nơi Phật điện mọi người im phăng phắc để lãnh hội giáo pháp thậm thâm vi diệu của Đức Như Lai. Sau buổi truyền trao qui giới ấy, tôi nghiễm nhiên là một Phật tử thuần thành. Từ đó tôi xem sách truyện cổ Phật giáo hay được nghe những buổi thuyết pháp của Thầy, tôi thấy đời sống của Thầy thánh thiện quá, tôi ước mơ một ngày nào đó cũng có được đời sống như Thầy, để có được những phút giây an lạc. Thầy Trừng Cảnh dạy chúng tôi gọi Thầy mà tôi vừa Quy y bằng Thượng tọa. Chúng tôi nhao nhao lên:
“Thưa Thầy con không chịu đâu, gọi Thượng tọa nghe xa lạ quá. Chúng con quý kính ông Thầy mà chúng con vừa Quy y, gọi bằng Thầy nghe gần gũi và thân mật hơn, có được không ạ?
Thầy bảo: “Không được.”
“Vì Thượng tọa Hồng Ân là Bổn Sư của Thầy, và theo Hạ Lạp, Ngài là bậc niên cao lạp trưởng phải tôn xưng cho đúng mới có phước. Mình là Phật tử vào Chùa phải kính Phật trọng Tăng”. Thầy Trừng Cảnh dạy chúng tôi phải vâng lời, nhưng sao tôi nghe nuối tiếc như vừa đánh mất một vật gì quý báu. Tiếng Thầy trong tôi nghe ấm áp, thân thương quá, một sợi dây gắn liền như tình Cha con, chính Ngài đã đưa tôi về cội nguồn, những bước chân chập chững đi vào đường đạo hôm nay là do Thầy tôi hướng dẫn. Thầy như người Cha, nhưng hơn người Cha thế tục là Thầy đã hoài thai La hán cho tôi. Chiếc nôi Tứ đại là do Cha Mẹ tạo thành, nhưng được uống những dòng sữa pháp là do Thầy mớm cho, món ăn pháp vị hôm nay cho đến tận đời vị lai, cũng bắt nguồn từ nhân duyên Thầy trò trong vô lượng kiếp.
“Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng
Nghĩa Ân sư muôn kiếp khó đáp đền”.
Từ khi lãnh hội những câu Giáo lý ngắn gọn nơi Bổn sư, tôi khắc sâu vào tâm khảm, Nhờ thế mà tôi có được những giây phút thảnh thơi và an lạc trong cuộc sống hàng ngày. Thế là cô bé ngày xưa rong chơi nghịch phá, đã trở thành một chú tiểu nhẫn nại, suốt ngày chỉ biết vâng lời dạy bảo, Nhờ những lời giáo huấn của Ân sư tôi đã làm hành trang đi vào đời một cách thiết thực. Làm tốt đạo đẹp đời để xứng danh môn phong Tổ đình Thiên Ấn. Thầy là người đã khơi nguồn sơ tâm cho tôi, đã bồi đắp niềm tin và ý chí, là bóng Bồ đề che chở cho bao thế hệ tương lai. Pháp âm của Thầy vẫn mãi mãi vang vọng muôn đời, muôn nơi thấm sâu vào tâm, trở thành máu thịt. Mỗi lần nhớ đến lời dạy của Thầy, tôi luôn có cảm tưởng như đang thừa hưởng pháp vị diệu vợi nơi Thầy. Oai đức của Thầy vẫn mãi mãi tỏa sáng đời tôi. Những ngày cuối đời, mặc dù nằm trên giường bệnh đệ tử về thăm, Thầy vẫn thường đem giáo pháp, kinh nghiệm trên đường tu của mình để sách tấn hàng đệ tử, tinh thần thầy rất là minh mẫn. Cho đến một buổi chiều mùa Hạ năm Mậu Ngọ (1978) tôi ngồi bên giường bệnh chăm sóc Thầy, quý Sư huynh tôi đang họp nhau tại phòng khách Chùa Phước Lộc để viết tiểu sử của Thầy. Thầy bảo tôi: “Con hãy gọi quý Sư huynh con lên chuông trống để Thầy về Phật.” Tôi vội vã xuống phòng khách mời quý Thầy lên, thì Bổn sư tôi cũng vừa ra đi vào thế giới vĩnh hằng vô tung bất diệt. Ôi! Một đời hành đạo của Thầy đến lúc này tôi thấy quá ư mầu nhiệm, đúng như câu các Tổ thường dạy: “Sanh như đắp chăn đông, chết như cởi áo hạ.” Thầy ra đi rất là nhẹ nhàng tự tại, trong tiếng niệm Phật đông đủ của hàng đệ tử.
TKN. Phước Giác
Sc Huệ Pháp diễn đọc