Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
– Kính bạch chư Tôn Hòa thượng chứng minh,
– Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng,
– Kính bạch quý Ni trưởng, quý Ni sư, chư Tôn đức Ni chứng minh,
Con, Tỳ-kheo-ni Như Thủy, xin thay lời toàn thể môn nhân pháp quyến môn hạ Tổ đình Huê Lâm và các tự viện, hôm nay có duyên sự đầu thành đảnh lễ kính dâng lời tác bạch.
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngưỡng bạch chư Tôn đức!
Để tưởng nhớ bậc Thầy truyền trao Giới thân Huệ mạng, cho chúng con có đời sống tâm linh vững vàng, trong nề nếp thiền môn quy củ. Hôm nay nhân Húy nhật lần thứ 25 của Ân Sư chúng con – Cố Sư trưởng thượng Như hạ Thanh, trên chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng, chư Tôn đức Ni đã từ bi hoan hỷ đáp lại lời cung thỉnh của hàng môn nhân pháp quyến, bất từ bì quyện chấn tích quang lâm Tổ đình Huê Lâm chứng minh Trai lễ. Thâm tình Linh Sơn cốt nhục của quý Ngài chúng con nguyện khắc cốt ghi tâm.
Giờ đây trong khung cảnh trang nghiêm, hòa hợp như pháp của Tăng đoàn, xin cho phép chúng con ôn lại đôi nét một đời công hạnh của Ân sư.
Kính bạch chư Tôn đức Tăng-già nhị bộ!
Sư trưởng thượng Như hạ Thanh, pháp húy Hồng Ẩn, tự Diệu Tánh, sanh năm Tân Hợi 1911 tại làng Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức. Người là con thứ tám trong gia đình có mười người con của Quan Tri huyện Nguyễn Minh Giác và cụ bà Đỗ Thị Gần.
Năm 1932, đến tuổi 22 sắc xuân tươi sáng, sớm ngộ lý Chơn thường, Người lễ Phụ thân, quyết một lòng ly gia tìm Chánh đạo. Trong năm đó chùa Giác Hoàng, Bà Điểm mở Trường Hương đầu tiên, Hòa thượng Pháp Ấn, chùa Phước Tường – Thủ Đức làm Chứng minh Đạo sư. Sư trưởng cầu Thầy, Hòa thượng thâu nhận cho thế phát xuất gia đặt pháp danh Hồng Ẩn.
Năm 1935 (25 tuổi), Người cùng Sư cụ Diệu Tịnh, Diệu Tấn, Diệu Thuận xây dựng chùa Từ Hóa, là chùa Ni đầu tiên tại làng Tân Sơn Nhì (nay là chùa Hải Ấn). Sau đó, Người vâng lời Sư Tổ Pháp Ấn về lãnh chùa Hội Sơn tu tập và hoằng hóa.
Năm 1938 (28 tuổi), Sư trưởng cùng Sư cụ Diệu Hường ra Huế tham học Kinh điển Đại thừa với Hòa thượng Mật Hiển. Năm sau, Người ra Hà Nội học Luật, Kinh và thọ Tỳ-kheo-ni, pháp hiệu Đàm Thanh. Sau 3 năm tham học, cuối năm 1941 trên đường về Nam, Người đã ghé vào Bình Định cầu học Kinh Lăng Già Tâm Ấn với Quốc sư Phước Huệ, chùa Thập Tháp trong năm tháng.
Đầu năm 1942 (32 tuổi), về lại Hội Sơn, Sư trưởng đại khai pháp tịch, Luật học truyền thừa rộng khắp Ni lưu. Năm 1945, ông bà Tri huyện Nguyễn Kỳ Sắc thỉnh Sư trưởng: về Sài Gòn tiếp nhận chùa Huê Lâm. Đại trùng tu chốn phạm vũ trang nghiêm. Ni viện kiến lập, tiếp Ni chúng mọi miền. Kinh – Luật – Luận, truyền trao đàn hậu tấn.
Năm 1952 (42 tuổi), Người mở trường Kiều Đàm dạy văn hóa, dạy làm người, đạo đức ươm mầm phước huệ. Giúp người nghèo học nghề sanh sống, vượt qua cảnh khốn cùng. Bên cạnh đó, nơi Bà Rịa – Vũng Tàu Người xây dựng Huê Lâm II, khai sơn Phổ Đà Ni tự, chùa Qui Sơn, Hải Vân nhìn biển quán duyên sinh. Tuyên dương Pháp môn Thiền Tịnh song tu, mở trí khai tâm cho những ai đủ phước duyên một lần hội ngộ.
Năm 1956 (46 tuổi), vì muốn nâng đỡ và thống nhất chư Ni tài đức, sau khi thỉnh nguyện, được Đại Tăng ủng hộ, Sư trưởng đã mạnh dạn lãnh trách nhiệm, đi khắp các tỉnh miền Đông và Tây Nam bộ vận động chư Ni hợp nhất đoàn thể. Ngày 6 tháng 10 năm 1956 tại Tổ đình Huê Lâm, Ni bộ Nam Việt được thành lập, Sư trưởng trở thành vị đứng đầu khai sáng Ni bộ Bắc tông, lãnh đạo Ni đoàn. Ban Quản trị ra đời có nội quy và tổ chức riêng.
Năm 1972 (62 tuổi), Giáo hội giao Sư trưởng đảm nhiệm vai trò Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông, trụ sở chuyển về chùa Từ Nghiêm. Từ đây, Sư trưởng kiến đàn truyền trao Giới pháp, giúp đàn hậu tấn phát triển lâu dài. Mười sáu lần làm Đàn đầu Hòa thượng, Giới tử Ni ân triêm Giới phẩm. Khắp đó đây chung tay lo Phật sự, Dòng Kiều Đàm rạng rỡ khắp trời Nam. Nhắc đến Sư trưởng là nhắc đến một bậc Đạo sư hùng lực uy nghiêm của Ni giới với oai nghi đĩnh đạc, chí khí cao nhàn, xứng danh vị Đại Ni tịnh giới, đáng ngôi bậc Tôn túc tài hoa, kế thừa Di Mẫu đảm đương đại sự nhân duyên. Tiếp dẫn Ni lưu hoằng truyền Thích Ca Chánh pháp.
Thế rồi, tám mươi chín tuổi chưa một lần ngơi nghỉ, Phật sự lo toan, duyên mãn ra đi vào một ngày xuân, pháp lạp 67 năm. Quả đã chín an nhiên quy tịch, Nhân đã tròn tự tại hoàn không. Lời dạy ân cần tha thiết của Sư trưởng vẫn còn văng vẳng:
Ngày về Phật dạy rành đồ chúng,
Gắng công tu đừng rụng đừng rơi
Một ngày lơi lỏng lỏng lơi.
Một ngày thất bại muôn đời khổ thân.
Ngưỡng bạch chư Tôn đức!
Tưởng niệm công hạnh bậc Thầy Ni giới, Ni chúng chúng con nguyện tinh tấn noi theo chí nguyện cao cả và gương hạnh Ân sư, đoàn kết hòa hợp, nâng đỡ lẫn nhau thông qua các lớp học Kinh, các khóa tu Báo ân, hết lòng phụng sự Tam bảo để báo đáp ân sâu trong muôn một. Giờ này, hợp thời thanh tịnh, chúng con xin cung kính dâng ngũ phần hương, gởi theo mây báu kiết tường, thành kính thiết lễ trai nghi, trên cúng dường mười phương chư Phật, thứ cúng hiện tiền nhị bộ Tôn đức Tăng-già. Xin hồi công đức nguyện cầu Giác linh Tôn sư hồi quy Tịnh Độ, không quên đại nguyện, Đàm hoa tái hiện, Ta-bà tùy cảnh độ sanh. Ngưỡng mong trên chư Tôn đức ai mẫn chứng minh nạp thọ, cho môn nhân pháp quyến chúng con được trượng thừa công đức.
Cúi xin mười phương Tam bảo gia hộ quý Ngài pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, đạo quả viên thành để dắt dìu chúng con và chúng sanh trên bước đường tu học và phụng sự Chánh pháp. Nam mô Chứng minh Sư Bồ tát ma ha tát.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nhật Tuệ (ĐSHĐ-127)