Gia đình tôi làm nghề nhang truyền thống, có từ thời ông cố đến tận bây giờ. Nghe ông nội kể, lý do ông cố chọn nghề nhang để mưu sinh vì hồi trước, ở trong làng tôi có rất nhiều chùa. Mặt khác, vì dòng họ theo đạo Phật nên ông cố muốn có chút gì đó ảnh hưởng, thành tâm. Nhang là cách gọi khác của hương. Đến nay, vẫn chưa ai biết nhang ra đời từ bao giờ. Chỉ biết, về mặt tâm linh, người xưa nghĩ rằng dùng nhang là cách thức để tỏ lòng hiếu, giao lưu giữa hai cõi âm-dương, cầu khấn tâm linh mong cho gia đình gặp nhiều điều tốt lành, may mắn.
Hồi nhỏ, sau những giờ tan học, tôi thường phải phụ gia đình chẻ chân nhang, se bột nhang, phơi nhang thành phẩm. Vào mùa mưa, công việc làm nhang càng vất vả vì phải chống chọi với thời tiết âm u, mưa bão. Nhang bị ướt vì chuyển vào nhà không kịp là chuyện bình thường. Tuy làm nhang là nghề thủ công đơn giản, nhưng cũng không kém phần kỳ công.
Đến với nghề nhang, việc đầu tiên là phải chẻ chân nhang. Chân nhang làm bằng cây tre, cây nứa chắc, không non yếu cũng không quá già. Kế đến là làm bột nhang. Bột để se nhang được làm từ vỏ cây ô đước phơi khô, rồi dùng cối đá giã nát ra thành bột mịn. Bột mịn nhuyễn gọi là bột áo để bao phía ngoài nén nhang. Còn bột to (gọi là bột hồ) để se phía trong thì phải dùng gỗ mục tán và rây thật nhỏ. Khi chế loại nhang thơm hay là nhang thẻ thì phải dùng gỗ trầm, gỗ bạch đàn, quế chi. Các nguyên liệu này được chẻ và tán nhỏ rồi rây kỹ. Ngoài ra, phải dùng đến phẩm màu: màu đỏ nhuộm chân nhang; màu vàng tươi, vàng sẫm thì nhuộm bột nhang.
Lúc xe nhang thì lấy một cái bàn độ dài hai thước, trên bàn để ba loại bột: bột hồ ô đước; bột nửa hồ nửa áo; một phần bột hồ và hai phần bột áo (nếu muốn làm nhang thơm thì thay bằng bột gỗ cây trầm). Sau khi trộn, nhồi bột, lấy tay se dài bột hình như đuôi chuột. Lấy một que nhang đặt giữa thanh bột dài rồi lăn cho bột bọc kín lấy chân nhang. Muốn se cho đều và nhang được tròn, ta phải có một miếng gỗ dẹp (ngang 10 phân, dọc 20 phân, dày 1 phân, phía lưng có núm cầm) lăn vài lần lên mình cây nhang cho đến khi nén nhang tròn và nhẵn. Khi nén nhang đã nhẵn, ta lại vùi nó vào đống bột áo khô, se lại lần nữa để cho bột áo ăn vào cây nhang, như vậy cây nhang mới đẹp, mùi thơm ngát. Xe xong, ta đem phơi khô dưới nắng và đóng gói.
Vào những ngày cuối năm, xóm làm nhang quê tôi nhộn nhịp hẳn lên. Khách phương xa đến thường ví von rằng: “Cứ hễ bước vào cổng làng là đã biết nơi đây làm nghề nhang rồi”. Bởi, hương trầm đặc trưng bay xa, phảng phất, không lẫn vào đâu được. Mùa này, nếu leo lên cây cao trong làng nhìn xuống sẽ thấy rõ toàn cảnh làng làm nhang. Màu vàng, màu đỏ hiện ra rực rỡ. Dưới bóng mặt trời trưa ngọ, những tia nắng chói chang tán sắc màu nhang tạo ra nhiều màu óng ánh, thích mắt. Người lớn gọi nhau í ới, chạy tới, chạy lui, lăng xăng không nghỉ chân. Họ bận rộn đến mức quên cả việc chăm sóc trẻ con, để mặc chúng tự nấu cơm, làm thức ăn, tự tắm rửa, giặt giũ. Các tiệm tạp hóa, nhà chùa, người bán dạo đến mua nhang nườm nượp. Thậm chí nhang chưa đủ độ khô cũng cho vào giấy kiếng đóng gói để kịp giao hàng. Trẻ con thường trêu người lớn rằng họ có “đôi tay vàng”. Nếu hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng đều hợp lý: họ luôn lao động cần cù và đôi tay họ lúc nào cũng vàng khè vì màu nhang.
Giờ những hình ảnh về làng nhang chỉ còn là ký ức. Vì phiêu bạt xứ người, vì kinh tế khó khăn và vì nhiều lý do khác nên lần lượt người dân nơi đây bỏ nghề nhang. Có số ít làm nhang theo kiểu thị trường, tức là thay vì dùng trầm để tạo hương, người ta dùng chất hóa học tạo mùi để sinh lợi nhuận cao. Nhưng những kiểu làm ăn dối trá ấy từ từ cũng lụi tàn vì khách hàng thưa dần. Duy chỉ có gia đình tôi, dù có khó khăn, sóng gió vẫn quyết giữ nghề truyền thống, làm theo công thức cũ. Vì thế mà khách hàng đến đặt nhang vẫn đều đều, dù có ít hơn xưa.
Tôi ưa thích cái cảm giác quây quần bên gia đình vào đêm ba mươi tết để dùng cơm tất niên. Lắng nghe tiếng chuông chùa ngân vang và hít thật sâu cái mùi trầm thơm ngát. Dù có bán đắc cỡ nào, nhưng cuối năm mẹ vẫn để dành vài bó nhang cúng gia tiên. Hương trầm nồng nàn, khiến tôi chợt nhớ lại những đêm giao thừa xưa cũ, ngồi bó gối chờ mẹ nấu bánh tét, mũi thì níu lấy mùi trầm bảng lảng mỗi góc nhà, thật thích thú vô cùng. Cũng chính cái mùi trầm ấy đã đi suốt tuổi thơ và cho tôi những ký ức đẹp.
Hoàng Nguyên (ĐSHĐ-005)