(Nhân ngày Húy Kỵ Cố Ni trưởng Viện chủ chùa Phổ Minh – Trà Vinh)
“Bút tả ai văn ngưỡng vọng Thầy
Đôi dòng huyết lệ giọt thương thay!
Lòng đau quặn thắt giờ ly biệt
Thất vắng Tôn sư bặt tiếng Thầy
Quấn chiếc khăn tang bên chiếu cỏ
Trời vàng tắt nắng đất ngừng quay
Kinh song nguyệt ảnh, đèn leo lét
Thống thiết đàn con, dạ kính bày.”
Lần tay tính, đã hai mươi bảy năm trôi qua, từ ngày Ân sư vắng bóng nơi trần thế, mà tưởng chừng như mới ngày nào đây! Ngược dòng thời gian, ngày Tôn Sư lâm trọng bịnh, Sư tỷ NHƯ NGỘ đã về Trà Vinh rước Thầy lên thành phố, ở chùa Vạn Hạnh Q.10 để đi Bác sĩ cho tiện. Lúc đầu, Thầy không chịu, nhưng rồi qua sự thuyết phục của Thầy Phó và lời thưa bạch của đệ tử, nên Thầy đồng ý lên Thành phố Hồ Chí Minh trị bệnh. Những ngày nằm trên giường bịnh, Thầy luôn nhắc nhở việc tu học của chúng con. Thầy bảo rằng, hồi xưa Sư Tổ dạy: “Tâm chúng ta thế nào, thì nghiệp sẽ theo đó mà thành. Đau khổ hay hạnh phúc không phải do tiền bạc mà do tâm con người. Chúng ta biết rõ nghiệp tạo ra bởi Thân, Khẩu, Ý của ta. Trong đó ý là chính, vì tâm có khởi, miệng mới nói và thân mới làm”. Thầy không được đi học nhiều như các con, được Sư Tổ chỉ dạy thế nào, Thầy theo đó hành trì, nên được lợi lạc rất tốt. Sư Tổ dạy rằng:“Người tu hành cần trau giồi đức tính khiêm cung, đối với chư Tăng phải hết lòng kính trọng, Thầy học ở Sư Tổ các con về những đức tính ấy nên chư Tăng, chư Ni ở tỉnh Trà Vinh đều thương Thầy, nên Phật sự nào Thầy cũng hoàn thành tốt”. Thầy còn kể cho chúng con nghe về tình huynh đệ giữa Thầy và Sư Phó. Thầy dạy rằng: “Khi Thầy mất rồi, các con phải thương kính Thầy Phó, vì Thầy Phó hy sinh gánh vác Phật sự nên Phổ Minh mới được như ngày hôm nay. Từ những lùm cây cỏ dại, nào mắc cỡ, nào rễ tranh, ngày nào hai thầy cũng bứng, cũng đào, mới được sạch đất, để rồi những luống cải, luống rau, mới xanh tươi, tốt đẹp như ngày hôm nay. Chùa chiền khang trang là hai Thầy đã đổ ra bao nhiêu công sức. Những đêm tụng kinh niệm Phật xong, hai Thầy cùng ngồi nơi ghế đá ở ngoài sân để ngắm ánh trăng và thưởng thức gió mát. Gần sáu mươi năm huynh đệ sống chung dạt dào tình pháp lữ. Nay Thầy tự thấy sức khỏe đã yếu nhiều, ngày xa chùa, xa huynh đệ, xa các con không còn lâu nữa. Thầy mong rằng các con đùm bọc với nhau, đừng để trống đánh xuôi kèn thổi ngược, người ta sẽ chê cười.”
Ôi! Tình Thầy bao la như tình Mẹ thương con! Trong những năm chúng con được nương tựa với hai Thầy, tấm lòng bao dung lân mẫn của hai Thầy, luôn khắc sâu mãi trong lòng chúng con. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng hao Thầy luôn cần mẫn giáo dưỡng, chăm lo cho chúng con từng bữa ăn, giấc ngủ. Tình thương vô bờ bến ấy, chúng con không sao diễn tả hết được. Hai Thầy đã đem hết tâm lực, để tô bồi đạo hạnh cho chúng con bằng những lời nhắn nhủ bảo ban, mỗi khi chúng con được hầu chuyện. Những điều ấy rất nhiều và rất nhiều, làm sao chúng con quên được.
Rồi một tuần sau đó, Bác sĩ báo tin không lành, chúng con gạt lệ đưa Thầy trở về Trà Vinh. Trước khi ra về, sợ Thầy không đủ sức để Di chúc những nguyện vọng. Chị em chúng con đã thâu băng để ghi lại những lời Thầy dặn dò. Nhưng nhiệm mầu thay! Đưa về chùa Phổ Minh thì Thầy khỏe lại. Thế là huynh đệ chúng con làm lễ Cầu an, phát chẩn, theo ý Thầy, trước khi về với Phật, Thầy muốn đền trả Tứ ân và trực tiếp Di chúc bằng lời. Thật đúng như sở nguyện, một tuần lễ sau đó, Thầy an nhiên thị tịch giữa tiếng niệm Phật của hàng đệ tử Tăng Ni và Phật tử.
“Trời chiều ảm đạm bóng hoàng hôn
Quặn thắt lòng con tợ sóng cồn
Thổn thức canh trường khi mất MẸ
Còn đâu tiếng pháp dạy ôn tồn
Thiền đường lặng tiếng SƯ răn nhắc
Trượng thất hình Thầy bất nhập môn
Tích trượng sương mờ bên hương án
Khăn tang quấn chít buốt tâm hồn.”
“Sanh giả không, Tử giả không” với các Ngài thì khứ lai tự tại “Tịch diệt, phi diệt”. Mà nay chúng con cảm thấy đau xót tâm can, từ đây chúng con vĩnh viễn xa Thầy quý kính. Còn đâu nữa ánh mắt dịu hiền, lời dạy răn chan chứa đạo tình. Những lúc về thăm Thầy, bên chiếc võng đong đưa nơi nhà Thiền, chúng con quấn quít, Thầy luôn nở nụ cười từ bi và hỷ xả. Cuộc sống của Thầy mộc mạc đơn sơ, nhưng lúc nào cũng ấm lòng người con xa xứ trở về.
“Hoa Đàm dẫu rụng vẫn còn hương
Phảng phất mùi thơm ngát diệu thường
Dép cỏ đường về SƯ khuất bóng
Thân chơi vạn dặm khắp muôn phương
Thường hằng tự tại nơi An Dưỡng
Nghiệp thức ba đào chẳng vấn vương
Bốn biển trăng soi ngàn thể diệu
Vô vi tịch chiếu tuyệt suy lường.”
TKN. Phước Giác (ĐSHĐ-127)