Lửa ngất tòa sen mãi đượm hồng
Pháp thân lồng lộng tựa hư không
Danh thơm còn mãi trang thanh sử
Quả tim bất diệt, đóa sen hồng.
Với chiều dài lịch sử du nhập và phát triển gần 2000 năm của Phật giáo Việt Nam, dù trải bao binh biến thăng trầm, nhưng Phật giáo Việt Nam luôn tồn tại và đứng vững cùng với văn hóa hồn thiêng trong lòng dân tộc. Càng trải qua sóng gió, càng trải qua khó khăn càng đủ chứng minh cho sự trường tồn của Phật giáo luôn đồng hành cùng với vận mệnh lịch sử của đất nước. Bao bậc Thánh tử đạo tiền nhân đã phụng sự quên mình cho đạo, cho Tổ quốc non sông. Trong đó Phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 cũng là minh chứng và ghi một dấu ấn hết sức quan trọng. Phong trào này đã để lại dấu ấn vàng son cho nền Phật giáo. Bằng tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi của đạo Phật, Bồ tát Thích Quảng Đức đã nêu cao gương hy sinh cao cả và tinh thần yêu nước trong sáng vì đồng bào, đồng đạo, nhất là sự tồn vong của Đạo pháp và tự do tín ngưỡng, bình đẳng giữa các tôn giáo, Bồ tát đã mượn ngọn lửa thiêng để tự thiêu thân, bảo tồn Phật pháp vào sáng ngày 11/6/1963 (20 tháng 4 nhuận năm Quý Mão) giữa đại lộ Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng 8, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Chính ngọn lửa thiêng hùng tráng, từ bi cao ngất tòa sen, đã nâng hình hài Bồ tát vào thế giới bất diệt, hình ảnh ấy đã in đậm trong ký ức của Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam và nhân loại trên thế giới, cùng trang sử vàng son của Phật giáo Việt Nam. Sự hy sinh phi phàm của Bồ tát Thích Quảng Đức đã làm vang dội địa cầu, chấn động dư luận khắp năm châu. Làm thức tỉnh bao con người u mê trong tăm tối của sự bạo tàn. Không chỉ có thế, Bồ tát Thích Quảng Đức còn để lại cho dân tộc Việt Nam nói chung và Tăng Ni, Phật tử, những người yêu mến đạo Phật nói riêng một “Trái tim bất diệt”. Đồng thời cũng để lại muôn vàn giá trị cao quý: từ quá khứ, cho tới hôm nay và cả thế hệ mai sau.
Hạnh nguyện cao cả của bậc Bồ Tát
Ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức bùng cháy đã đánh động lương tri những người yêu chuộng hòa bình, tự do, độc lập trên toàn thế giới. Tinh thần bất khuất của Ngài đã lan tỏa vào tâm thức của mọi người trên khắp hành tinh, không phân biệt màu da, chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính kiến. Chúng ta cũng biết đến Đức Phổ Hiền Bồ tát cũng nguyện chính Pháp được hoằng dương, Đức Phật trụ thế để Phật pháp được còn mãi ở thế gian, chúng sinh có cơ duyên mà hết khổ. Cũng trong kinh Pháp Hoa có hai vị Bồ tát Dược Vương và Bồ tát Dược Thượng cũng đốt tay cúng Phật. Bồ tát Thích Quảng Đức thọ trì tụng kinh Pháp Hoa. Cho nên, Bồ tát đã học gương hạnh của Ngài Dược Vương Bồ tát, đốt thân này để cúng dường chư Phật và cầu nguyện cho Phật pháp được trường tồn.
Đức Phật cũng dạy: “Phụng sự chúng sinh là cúng dường chư Phật”. Phật pháp là con thuyền cứu khổ chúng sinh. Vậy nên, Phật pháp còn tồn tại thì chúng sinh còn có cơ duyên thoát khổ. Vậy nên, học theo hạnh của các Ngài, chúng ta cần quán chiếu để thấy sự quý báu của Phật pháp cũng như những mất mát to lớn nếu Phật pháp bị diệt vong. Từ đó, phát khởi tâm nguyện làm lợi ích chúng sinh, mong sao cho đạo Pháp được trường tồn.
Như vậy, Bồ tát Thích Quảng Đức đã phụng sự chúng sinh bằng trái tim vô ngã. Ngài đã dùng cả mạng sống để giáo hóa cho chúng sinh. Ngài là bậc chân tu và có sự chứng đắc của bậc Bồ tát. Cho nên, sự ra đi của Ngài thể hiện sự chứng đạt. Bởi nếu không phải một người đã chứng đắc thiền, chứng định, không đắc trí tuệ thì không thể nào mà an nhiên giữa một vầng lửa nóng của thế gian như vậy được. Ngài thực sự đã chứng đạt lý sâu mầu của kinh Kim Cương, lửa nóng của thế gian biến thành lửa Tam Muội, nên Ngài mới nguyện nhẹ nhàng, bình thản và vững chãi như vậy.
Ngọn lửa ánh sáng của Bồ tát Thích Quảng Đức mãi là ngọn đuốc thiêng liêng, là sự điểm tô gương hy sinh cao cả của chư Thánh tử Đạo. Ngài là đóa hoa sen tươi thắm bất nhiễm, là viên ngọc vô giá, long lanh như ngọc lưu ly thanh tịnh phụng sự chúng sinh, đền ơn chư Phật.
Một trái tim bất diệt không thể cháy của Bồ tát Thích Quảng Đức chính là biểu thị của nghị lực kiên cường, lòng quả cảm bất khuất trung kiên, bằng tinh thần, ý chí, hồn thiêng sông núi của đất nước Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, đã hun đúc sự kết tinh từ tâm nguyện – trí chứng – định lực của Ngài nên trái tim ấy trở thành kim cương bất hoại. điều đó giúp cho nhân loại càng củng cố niềm tin sâu dày về Phật pháp.
Trách nhiệm của Tăng Ni trẻ hôm nay
Đại sư Liên Trì đã dạy: “Trí lực càng cao, chướng ngại càng lớn, tu hành càng khó thành tựu, ” vì thế, mà chúng ta không thể đem trí lực bình thường của thế gian mà cân đo đong đếm được, Ngài còn dạy thêm rằng: “Người không có đạo hạnh, sao có thể làm người xuất gia tu hành”. Lấy sự nghiệp hoằng dương Phật pháp làm đầu. Dù trong hoàn cảnh nào, trú xứ nào, thời điểm nào cũng không bao giờ xao lãng việc đem Chính pháp của đức Phật lưu bố trong dân gian. Công cuộc hoằng pháp luôn luôn đi đôi với lý tưởng tự giác và giác tha, tự mình nghiêm cẩn hành trì Giới, Định, Tuệ để làm hành trang, làm vốn liếng ban bố Chính pháp cho người, góp phần kiến tạo đời sống an lạc, hạnh phúc, và hòa bình cho nhân loại. Trong kinh Tán Dương Công Đức Tăng Bảo, kinh dạy: “Người đệ tử xuất gia là người có thể đảm trách và kế tục Chính pháp của Như Lai ở đời sau. Nếu đem tất cả công đức của người thế gian gộp lại cũng không thể sánh bằng một người xuất gia hoằng dương Thánh giáo”. Xuất gia là một chí nguyện, như người lập chí cho sự nghiệp của mình mà ra sức và tập trung học hỏi trau giồi. Việc xuất gia mang ý nghĩa tiếp tục gánh vác trọng trách của Đức Phật, nối tiếp dòng thánh, duy trì tuệ mạng. Muốn được như vậy thì người xuất gia phải phát tâm dũng mãnh, trên cầu Phật đạo dưới cứu chúng sinh, giúp chúng sinh rời khổ được vui, chứng ngộ chân lý, giải thoát sinh tử luân hồi.
Vì vậy, người xuất gia cần ghi nhớ lý tưởng cầu mong giải thoát, cần giữ vững lý tưởng, bản hoài và hạnh nguyện của mình, cũng có nghĩa là giải thoát ra ngoài những danh lợi, vật chất, tiền của, tình cảm ở thế gian. Không để một đời uổng phí, đến lúc chết không có một chút công đức phước lành thiện căn và thân này trở thành nguồn mối sa đọa. Bên cạnh đó, cần noi gương tâm đại hùng, đại lực, đại bi, đại trí, đại dũng của Bồ tát Thích Quảng Đức sẵn sàng xả bỏ thân này để cứu độ chúng sinh, soi sáng góc u tối trong tâm hồn của những kẻ ác.
Đức Phật vì chúng sinh mà hi sinh không tiếc thân mạng. Trong vô số những tiền thân mà Ngài đã trải qua trước đây, Đức Phật vì lòng từ bi thương xót đã từng cứu giúp và mang lại sự an vui, hạnh phúc cho vô số chúng sanh. Ngài không hề nghĩ đến tự thân, đã từng nhiều lần đem thân mạng mình bố thí cho những chúng sanh đói khổ. Thậm chí sẵn sàng bố thí thân mạng mình cho cọp đói.
Qua đây, chúng ta phải tự xem lại mình, phải thâm nhập Phật pháp, học hiểu để biết Phật pháp thật quý báu. Chúng ta có thể bỏ thân mạng để cầu Phật pháp. Trong tiền thân của Đức Phật, rất nhiều kiếp Đức Phật đã bỏ thân để cầu Pháp. Trong tâm mỗi chúng ta phải gieo cho mình hạt giống sẵn sàng vì Pháp mà bỏ thân, mong cho Phật pháp được trường tồn được lâu dài, mong cho chúng sinh hết khổ.
Người xuất gia cần làm gương soi cho hậu thế. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, Đức Phật không chỉ để lại một gia sản khổng lồ cho nhân loại về hệ tư tưởng, đức tin, giá trị đạo đức, phương pháp tu tập để đạt được sự giác ngộ và giải thoát mà còn là tấm gương mẫu mực về nhân cách của một người Thầy vĩ đại.
Đức Phật là hiện thân của tất cả đức hạnh lý tưởng. Ở Ngài, ta thấy sự hiện thân của luân lý cao nhất (giới), tập trung sâu xa nhất (thiền định) và trí tuệ thâm sâu (huệ) – những đức tính không ai vượt qua được và không sánh được trong lịch sử loài người. Những đức tính cao cả ghi trong các kinh, những bài thuyết giảng của Đức Phật. Đạo đức chuẩn mực của Đức Phật có thể tóm tắt trong những phẩm hạnh đạo đức chuẩn mực của Đức Phật như: Tâm từ bi, lòng vị tha, đức khiêm tốn, công bằng, bình đẳng, kiên trì, nhẫn nại, vượt khó và đức hy sinh.
Người xuất gia là biểu mẫu, là mô phạm (chuẩn mực) cho muôn loài, là Thầy của cõi Trời, người. Do đó, người đã xuất gia phải tự ý thức được điều này để tu tập và sửa mình. Ý thức mình là nơi nương tựa của chúng sinh, phải cố gắng sửa đổi tính nết, rèn giũa phẩm hạnh cho được tốt đẹp sao cho xứng đáng là đệ tử của Đức Như Lai, là tấm gương sáng cho đời, đem lại lợi ích Phật pháp cho chúng sinh.
Ứng dụng “Lời dạy của Đức Phật” vào cuộc sống hằng ngày. Đồng thời Đức Phật luôn dạy về lòng biết ơn. Chúng ta được sống trong hòa bình hôm nay một phần là nhờ ân đức của Bồ tát Thích Quảng Đức đã xả thân mạng mình để bảo vệ Phật pháp và đất nước. Phật pháp là con đường duy nhất cứu chúng sinh thoát khổ. Trái tim của Bồ tát Thích Quảng Đức thực sự là vĩ đại và bất diệt.
“Vị pháp thiêu thân, vạn cổ hùng huy thiên nhật nguyệt;
Lưu danh bất tử, bá niên chánh khí địa sơn hà.”
Ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức khiến cả thế giới cúi đầu khâm phục chính là giá trị tâm linh mà Ngài đã để lại cho cuộc đời. Với tinh thần yêu nước trong sáng và hạnh nguyện vô ngã vị tha, tự tại vô úy trước sự sống chết, Bồ tát Thích Quảng Đức đã mượn lửa thiêng để tự thiêu thân vì hạnh phúc và lợi ích cho tha nhân, và để lại cho nhân thế một di sản tinh thần vượt trên mọi suy tư, luận lý của đời thường, đó chính là Trái tim bất diệt”. Trái tim của Bồ tát Quảng Đức mãi soi đường cho hậu thế hôm nay và mãi về sau. Thế hệ chúng ta hôm nay được sống trong hòa bình và hạnh phúc một phần là nhờ vào sự hy sinh vô bờ bến của các thế hệ cha ông đi trước. Vì thế, cần phải có bổn phận, trách nhiệm phát huy tinh thần từ bi trí tuệ của đạo pháp để “Hoằng pháp lợi sanh”, đem đạo vào đời, làm lợi ích cho mình và cho người ví như hoa sen mọc giữa bùn nhơ, đứng thẳng giữa cuộc đời ô trược mà tỏa hương thơm ngát. Đó là chúng ta đã đền trả bốn ân một cách thiết thực đúng như lời Đức Phật đã chỉ dạy.
Thành kính đảnh lễ Giác linh Bồ tát Thích Quảng Đức!
Thích Trung Đức (ĐSHĐ-118)