Con người chúng ta mãi theo đuổi những thứ được cho là tốt đẹp, mỗi người ai cũng nỗ lực miệt mài để đạt được cái gọi là hạnh phúc. Nhưng thứ hạnh phúc mà mọi người mải mê theo đuổi nó vốn không tồn tại lâu dài, không riêng gì hạnh phúc mà sự khổ cũng chẳng ở lại với chúng ta lâu dài. Bởi theo quy luật của cuộc sống tất cả mọi sự vật, hiện tượng dù là hữu hình hay vô hình cũng đều theo quy luật vô thường.
Vô thường đã làm cho mọi thứ thay đổi, không có bất cứ thứ gì trên thế gian này mà không chịu sự đổi thay, có sinh thì có diệt đây là chân lý của cuộc đời. Dù chúng ta có chấp nhận hay không nó vẫn diễn ra, nó đang diễn ra đối với thế giới xung quanh chúng ta, trong những người bạn thương yêu nhất và trong chính bạn… từ tính cách cho đến thân thể từng giờ, từng phút, thậm chí trong từng sát na. Nếu bạn không hiểu và không thấy sự vô thường thì sẽ mãi mãi khổ đau, bởi chỉ trong thời gian ngắn ngủi mới đó đã chia ly người mà chúng ta thương yêu nhất hay những thứ mà mình quý nhất… Lúc này, con người sẽ cảm thấy bất an, lo lắng và hoảng loạn. Họ cảm thấy tuyệt vọng không lối thoát, họ sợ phải đối diện với những mất mát, những thất bại trong cuộc sống và cuối cùng chọn cách thu gọn cuộc sống vào một gốc riêng nào đó mà bản thân cho là an toàn nhất.
Tâm lý học có mặt, nhằm giúp cho mọi người có cuộc sống tốt hơn, tự tin nơi bản thân hơn, giúp con người giải tỏa mọi vấn đề mà người bệnh chưa tháo gỡ được trong cuộc sống. Tâm lý học hiện đại có rất nhiều trường phái tiếp cận, tuy có nhiều trường phái ra đời nhưng cuối cùng cũng với một mục đích là giúp con người nhìn nhận được mọi vấn đề, từ đó có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy nghiên cứu về quan điểm hành vi trong tâm lý học hiện đại như sau.
1. Quan điểm hành vi của tâm lý học hiện đại
John B. Watson được xem là nhà sáng lập trường phái hành vi. Ông đã thay đổi mục tiêu của tâm lý học từ việc mô tả và giải thích các tình trạng của ý thức sang việc tiên đoán và kiểm soát hành vi. Ông nói rằng: “Nhà hành vi luận không thể tìm thấy ý thức trong ống nghiệm của khoa học. Ông không tìm thấy bằng chứng ở nơi đâu cho một dòng ý thức, ngay cả một dòng ý thức rất có sức thuyết phục như được mô tả bởi Williams James. Tuy thế, ông lại tìm thấy bằng chứng rất thuyết phục về một dòng hành vi luôn mở rộng1.” John B. Watson cho rằng: Nơi những ống nghiệm ông không thấy sự có mặt của ý thức trong đó mà chỉ thấy hành vi có mặt. John B. Watson quan sát và đưa ra kết luận rất đúng, bởi hành vi là những cái được biểu hiện ra bên ngoài nên người quan sát rất dễ thấy, nhưng những cái mà chúng ta không nhìn thấy bằng mắt thường thì chúng ta cũng đừng vội cho rằng nó không có mặt. Ví dụ: khi chúng ta thấy một cái ly, chúng ta sẽ thấy ngay sự khéo tay của người nghệ nhân đã tạo ra một cái ly rất đẹp (cũng giống như cái hành vi mà Watson có thể nhìn thấy ngay trong ống nghiệm). Tuy nhiên, để có một cái ly đẹp như vậy, người nghệ nhân phải suy tư để thiết kế ra mẫu ly đẹp, đây chính là điều quan trọng mà Watson đã bỏ, bởi nếu không có sự đóng góp của ý thức vào việc làm ra cái (hành vi) thì chắc chắn cái ly sẽ không hiện hữu với cái ly chỉn chu như vậy được.
Mục tiêu trong tâm lý học của Watson là tiên đoán và kiểm soát hành vi, việc tiên đoán bản thân nó thể hiện sự không chuẩn xác, còn mơ hồ, không xác định được. Cho nên, ở khía cạnh tiên đoán chưa hoàn toàn thuyết phục.
Việc kiểm soát hành vi, nếu xét ở khía cạnh cấp bách thì nó có thể tạm thời chấp nhận đối với những bệnh nhân có những hành vi muốn làm hại thân thể của chính mình bất cứ lúc nào chẳng hạn, lúc này các chuyên gia tâm lý có thể sử dụng khía cạnh kiểm soát hành vi đối với bệnh nhân như vậy. Tuy nhiên, việc kiểm soát hành vi không thể sử dụng lâu dài, bởi nó không mang lại kết quả triệt để, hành vi bị kiểm soát giống như bị đè nén không cho bùng phát. Nhưng cái gì một khi bị đè nén lâu dài không cho nó thoát ra, lâu ngày nó sẽ bùng phát trở lại mạnh mẽ hơn. Cho nên, chúng ta giải quyết bất cứ vấn đề nào cũng vậy, nên tìm hiểu nguyên nhân, gốc rễ của nó và điều trị ngay tận gốc rễ khi ấy những phần ngọn tự động nó sẽ hoàn thiện.
Ý thức mà Watson cho rằng không thấy thì nó chính là yếu tố quan trọng để tạo ra những hoạt động nơi ống nghiệm. Chúng ta thử tưởng tượng xem nếu thế giới này chỉ quan tâm đến hành vi mà không đề cập đến ý thức thì sẽ ra sao, chắc chắn mọi thứ đảo lộn cả lên bởi chỉ dựa vào hành vi. Hành vi không đơn thuần là hành vi mà nó có hành vi tốt và hành vi không tốt, nếu mọi người đều hoạt động với hành vi tự phát thì xã hội sẽ bị xáo trộn. Bởi trong cuộc sống để có một xã hội phát triển thì luôn luôn cần có ý thức, trách nhiệm, đạo đức của mỗi người.
Tuy nhiên, quan điểm hành vi của tâm lý học hiện đại họ cho rằng: Hành vi của con người dễ dàng được nhìn thấy, dễ dàng được thay đổi. Hành vi quyết định khổ đau hay hạnh phúc của con người. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến hành vi mà bác bỏ ý thức thì quan điểm này thực sự chưa hoàn toàn đầy đủ. Theo Sechenov: “Cả hành vi bên ngoài lẫn bên trong đều được kích thích bởi các sự kiện bên ngoà2i,” Sechenov nói không sai. Nhưng hành vi được biểu hiện là phải qua sự sàng lọc, phân biệt của ý thức khi ấy hành vi mới thực sự có mặt. Cả ý thức và hành vi đều phải nhờ sự kích thích của môi trường bên ngoài mới có sự phân biệt của ý thức tiếp theo, mới hiện ra hành vi qua nét mặt, cử chỉ, lời nói… Khi các giác quan tiếp xúc với trần cảnh (đối tượng) bên ngoài đâu phải tự nhiên hành vi xuất hiện, tâm lý con người là cả một tiến trình hoạt động liên kết với nhau mới tạo ra hành vi bên ngoài, đừng vội cho rằng hành vi khi được thay đổi thì sẽ tốt đẹp cả. Hành vi chỉ là cái phản ứng được biểu hiện ra bên ngoài trong cả một chuỗi tiến trình vận hành.
Trong một tình huống như: Khi chúng ta làm ăn thua lỗ dẫn đến thất bại, nợ nần chồng chất, lúc này hành vi chưa xuất hiện, chính suy nghĩ, lo lắng có mặt trước. Họ lo lắng về tiền bạc khi bị nợ nần, lo lắng về vợ con, nhà cửa, công việc làm ăn, thậm chí họ còn nghi ngờ về khả năng làm việc của chính bản thân đã không giữ được công ty… Vậy cái gì đến trước khi sự cố xảy ra trong tình huống này? Từ những suy nghĩ túng quẩn ấy phát sinh thêm hàng loạt câu hỏi trong tâm trí họ, suy nghĩ ấy kéo dài khiến cho họ càng ngày càng tuyệt vọng không còn lối thoát trong suy nghĩ nữa, lúc này mới có sự bộc phát của hành vi là muốn thoát ra khỏi chúng. Như vậy, hành vi trong tình huống này đã có mặt sau suy nghĩ, là sự muốn thoát ra khỏi những suy nghĩ tuyệt vọng khiến cho họ cảm thấy đau khổ. Chúng ta phải thấy được cái gì mang đến hành vi tốt hay hành vi tuyệt vọng trong bản thân chúng ta. Do tư duy tuyệt vọng, hành vi chắc chắn sẽ là những quyết định tuyệt vọng như tự tử, hay tự kỷ, điên loạn. Đó là những cách mà con người đa phần muốn tìm đến khi gặp biến cố trong cuộc đời họ mà không thể tự giải tỏa được.
Nếu theo quan điểm hành vi của tâm lý học hiện đại chỉ quan tâm đến hành vi thì khi những người gặp phải những tình huống như trên, họ tìm đến các chuyên gia tâm lý học để giúp họ tìm cách vượt qua nỗi khổ hiện tại. Lúc này, các chuyên gia chỉ khuyên và dùng phương pháp trị liệu khuyên họ hãy thay đổi ở hành vi (kiểm soát hành vi của Watson) của chính bản thân. Cách giải quyết vấn đề của tâm lý học hiện đại theo quan điểm này chưa thực sự rốt ráo. Nếu phương pháp này thành công người bệnh chấp nhận thay đổi hành vi và trở lại cuộc sống bình thường, nhưng chúng ta có chắc chắn rằng trong thâm tâm người đó đã giải tỏa được vấn đề chính chưa, hay những khó khăn vẫn còn tồn tại chưa được giải quyết, bởi họ còn nợ nần đang chờ đợi, cơm áo gạo tiền, vợ con… mọi thứ đang hiển hiện trong cuộc sống hiện tại, liệu một ngày nào đó họ túng quẩn, họ có trở lại hành vi sai lầm nữa không. Chắc chắn là có, bởi cái gốc của vấn đề nó nằm ở cái suy nghĩ, chúng ta chưa giải quyết nó mà chúng ta chỉ đè nén nó, muốn thoát ra cái khổ hiện tại mà không quan tâm đến cái gốc rễ của vấn đề, chẳng khác nào cắt cỏ thay vì nhổ cỏ. Đây gọi là giải thoát mà không cần giác ngộ. Cái chính của chúng ta là giác ngộ (thấy được cái nguyên nhân của nỗi khổ hiện tại) chứ không phải giải thoát, chỉ có giác ngộ mới thực sự chấp nhận và đoạn tận khổ đau trong cuộc sống của con người.
Hành vi chỉ là hành động làm theo mệnh lệnh của ý thức. Không những ở tình huống này mà bất kỳ tình huống nào xảy ra cũng do ý thức làm chủ và quyết định, hành vi chỉ là yếu tố phụ của ý thức. Cái chính ở đây, chúng ta phải thay đổi lối suy nghĩ chứ không phải thay đổi hành vi. Suy nghĩ không thay đổi mà muốn thay đổi hành vi chẳng khác nào lấy đá đè lên cỏ, khi bị đá đè lên cỏ sẽ không chết đi mà chỉ trong trạng thái bị đè nén, nhưng khi có cơ hội thì cỏ đó sẽ ngùn ngụt vượt lên chứ không mất đâu cả. Phiền não cũng vậy sẽ không mất khi thay đổi hành vi. Quan điểm hành vi trong tâm lý học hiện đại chỉ loại bỏ cái sai thực hiện cái đúng.
2. Tư tưởng Tứ Thánh Đế được Đức Phật dùng để chữa tâm bệnh cho chúng sanh như sau
Đức Phật Thích Ca cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, Ngài giống như một nhà tâm lý trị liệu, những gì Ngài đề cập đều liên quan đến việc giải quyết các vấn đề khổ đau về mặt tinh thần cho chúng sanh. Giáo lý đã giúp cho chúng sanh thấy và chuyển hóa khổ đau là giáo lý Tứ Thánh Đế gồm có: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
2.1. Khổ đế
Trong cuộc sống, con người có muôn vàn cái khổ, cái gì làm cho tâm chúng ta cảm thấy khó chịu, bức bách, bất an… đó chính là khổ, chứ không phải chỉ có tam khổ và bát khổ như chúng ta thường biết. Phần lớn, cái khổ của chúng sanh là cái khổ do tâm tạo ra. Khổ đế cơ bản có tam khổ và bát khổ. Khổ mà Đức Phật đề cập đến không chỉ có tam khổ và bát khổ mà bản chất của cái khổ bao gồm: khổ do nghiệp, khổ do các hoàn cảnh tự nhiên tạo ra và cái khổ về mặt tâm lý.
2.1.1. Khổ do nghiệp
Khổ do nghiệp là cái khổ do cái nhân trong quá khứ đã tạo, cho nên, hiện tại chúng ta đang gặt hái cái quả. Chính vì vậy, mỗi người đều có mỗi cái nghiệp khác nhau, từ thân và tâm đều không giống nhau. Đức Phật dạy như sau: “Khi chúng sanh đã tạo nghiệp rồi, thì nghiệp ấy đi liền theo như bóng không lìa hình; nghiệp ấy đưa ta lên thiên đường, đưa ta xuống địa ngục; nghiệp ấy là tư lương, là hành trang của chúng sanh mang theo khắp ba cõi, sáu đường; vui khổ cùng thọ nhận, họa phúc phải chung phần, quý tiện cùng chia sẻ, vinh nhục đều chung ở3…” Đối với cái khổ này Đức Phật dạy chúng ta chỉ còn cách phải chấp nhận sống với nó và phải tự thấy rõ cái khổ hiện tại là do chính chúng ta gây tạo ra để hôm nay nhận quả như vậy, từ đó tự điều chỉnh ý thức của mình, sáng suốt không tạo thêm cái khổ mới trong hiện tại và tương lai. Lúc này, cái khổ mới thực sự dừng, không còn kéo dài đến tương lai. Phương pháp trị liệu của Đức Phật đối với khổ do nghiệp giúp tâm lý chúng ta bớt khổ ở hiện tại và tiếp tục xây dựng cuộc sống tốt đẹp ở hiện tại và tương lai khi không còn vướng cái khổ hiện tại, bởi chúng ta đã chấp nhận nó. Đây chính là điểm rốt ráo trong việc chữa tâm bệnh cho chúng sanh, không những ở hiện tại mà tương lai không còn phải khổ sở, ray rứt nữa, bởi khi ấy con người đã thực sự nhận ra được cái khổ do chính mình tạo và chấp nhận trả những nghiệp mình đã gieo. Do thấm thía được cái khổ cùng cực của nhân quả mang lại nên họ sẽ không bao giờ dám tạo ra bất kỳ cái nhân xấu nào nữa, từ đó trong đời sống chỉ xuất hiện những việc làm, suy nghĩ… tốt. Đây chính là cách thay đổi nhận thức để chuyển hóa khổ đau, chứ không phải tránh né cái khổ mà được thoát khổ.
(Còn tiếp)
Huệ Tấn (ĐSHĐ-123)
- B. R. HERGENHAHN, Phan Quang Định (dịch) (2019), Lịch Sử Tâm Lý Học, Chương 12, Hành Vi Luận, NXB. Hồng Đức, tr. 549.
- B. R. HERGENHAHN, Phan Quang Định (dịch) (2019), Lịch Sử Tâm Lý Học, Chương 12, Hành Vi Luận, NXB. Hồng Đức, tr. 526.