Di Lặc vui tươi miệng cười hoài
Bốn mùa Xuân Hạ chẳng đổi thay
Tâm luôn hoan hỷ, tâm thường trú
Chơn thể Từ bi, tánh hiển bày.
Thật vậy, các Ngài thanh bần thủ đạo nên mãi vui với gió nội mây ngàn. Tâm các Ngài thong dong tự tại, thanh thản, không vướng bận việc trần. Lấy việc độ sanh làm hạnh nguyện, tùy thời, tùy cơ, mà giáo hóa chúng sanh. Lấy Tam giới làm nhà, chúng sanh trong ba cõi làm thân bằng quyến thuộc, chẳng chấp thân sơ, chẳng màng lao nhọc. Đối với các Ngài chẳng có các ngày giờ Xuân Hạ hay Thu Đông. Tâm bàng bạc giữa vùng trời rộng lớn, ngày nào cũng là ngày tốt của đất trời, của thiên nhiên hoàn vũ. Hồn quý Ngài lâng lâng như sóng vỗ ngoài khơi, chẳng chấp đắm như thuỷ triều lên xuống, được chẳng màng, mất chẳng than. Do đó mà, chư Phật, Bồ tát lúc nào cũng nghĩ đến chúng sanh và tình thương của các Ngài vô biên không giới hạn, nụ cười thật tươi hoan hỷ tận đáy lòng, không ưu phiền, không đố kỵ oán than nên sắc diện của các Ngài mãi mãi là mùa Xuân tươi thắm.
Còn ngược lại, chúng sanh bị thất tình, lục dục kéo lôi, không làm chủ được, nên suốt ngày bị phiền não trói buộc. Trong hai mươi bốn giờ, chúng ta xuống lên trong ba cõi, sáu đường không biết bao nhiêu lần. Khi được vừa lòng thích ý, tâm ta vui mừng khoái lạc, lúc ấy là ta đang sống và thọ hưởng cảnh dục lạc ở cõi trời. Trong kinh BÁT ĐẠI NHƠN GIÁC Đức Thế Tôn dạy rằng: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy.” Nghĩa là cả thế gian này đều là vô thường, cõi nước cũng tạm bợ, nó chẳng có gì lâu dài và bền chắc. Nên niềm vui mà ta hưởng thụ, giống như ở cõi trời, nó chỉ thoáng chốc rồi tan biến.
“Vui trong phút chốc, vui rồi khổ.”
Ví như người đời khi đến tuổi trưởng thành, lúc đẹp nhất, vui nhất, là lúc bước lên xe hoa. Nhưng rồi sau đó bao nhiêu cảnh khổ đang rập rình chờ đợi. Vợ chồng bất hòa, con cái bất hiếu v.v… kinh tế khủng hoảng, nếu dư ăn, dư mặc, thì thói hư tật xấu phát sinh. Cho nên, cuộc sống cõi trời phút chốc đã tan biến, việc ghen tuông, đánh đập, đấy là cảnh giới địa ngục lại hiện về, hay nhìn đàn con nheo nhóc, thiếu trước hụt sau, ốm đau bịnh hoạn, cơm không đủ no, áo quần không đủ mặc, đấy là ta đã rơi vào cảnh giới của loài ngạ quỷ. Đức Phật dạy rằng: “Nước mắt của vợ chồng, con cái khóc để tiễn đưa nhau, nhiều hơn nước của đại dương.” Như thế đủ biết rằng chúng ta đã luân hồi sanh tử, tử sanh đã bao nhiêu kiếp, chưa tìm ra được đường về. Đấy là nỗi khổ ngoại cảnh, còn nỗi khổ của tự thân ta, Đức Thế Tôn dạy: “Thân con người là do Tứ đại hợp thành bốn chất: đất, nước, gió, lửa, gọi chung là Tứ đại.”
– Những chất cứng trong người như da, thịt, gân, xương v.v… thuộc về đất.
– Máu, mủ, mồ hôi, nước tiểu v.v… thuộc chất ướt, gọi là nước.
– Hơi thở ra vào gọi là gió.
– Nhiệt độ hơi ấm trong người gọi là lửa.
Đủ duyên bốn thứ chung hợp lại, gọi là con người đang sống, nếu thiếu một phần nào trong bốn chất ấy, thì không thể hình thành nên một con người hoàn thiện, có đủ lương tri và phẩm chất của một con người. Tuy hoàn thành một con người, nhưng chúng ta phải vay mượn tứ đại bên ngoài mới sống được. Xét về ăn, uống là chúng ta phải vay mượn đất nước ở bên ngoài để nuôi cơ thể, hít thở là vay mượn gió bên ngoài, nếu thở ra mà không hít vào là chết ngay, cơ thể có vận động, ăn uống điều hòa, tạo ra nhiệt lượng gọi là lửa, có đủ bốn chất ấy, con người mới sống được. Nhưng cả đời chúng ta phải sống vay mượn, giờ nào còn vay mượn thì gọi là còn sống, hết vay mượn nữa, là lúc buông tay từ giã cõi đời. Vô thường là lẽ thật, là chân lý. Chư Phật, chư Bồ tát đã nhận chân được lẽ thật của sự vô thường, nên các Ngài đã tinh tấn hành đạo. Điều giác ngộ thứ hai: “Đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, tùng tham dục khởi. Thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.” Đức Phật dạy rằng: “Tham dục càng nhiều, khổ đau càng lắm, sanh tử luân hồi biết bao giờ dứt. Bớt đi lòng ham muốn, đối với ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thuỳ) thì sẽ được an vui tự tại. Tất cả nguyên nhân của mọi sự khổ đau, gốc của nó là do lòng quá ham mê ngũ dục mà có. Muốn bớt khổ, hết khổ, phải ít muốn biết đủ, không gây nhân tổn người hại vật, không gây nên nghiệp chẳng lành, thì thân tâm mình sẽ được an ổn tự tại. Chư vị Thánh hiền, Bồ tát cũng từ nơi thân người như chúng ta, nhưng các Ngài quyết chí tu hành, nên không còn các việc khổ trói buộc. Vậy tu bằng cách nào? Tu là sửa, tự sửa thân tâm của mình cho phù hợp và thích nghi với mọi hoàn cảnh, sửa đổi Thân, Khẩu, Ý, không chiều theo nó, thuận theo dòng thế gian rồi tạo nghiệp, để về sau phải trả nợ oan khiên. Chư vị Bồ tát vào đời để hóa độ chúng sanh, các Ngài vẫn sống trong cõi đời ngũ trược ác thế này, mà không bị thất tình, lục dục lôi kéo, (Cư trần bất nhiễm trần) như hoa sen mọc trong bùn, mà không bị mùi bùn làm vẩn đục, từ bùn vươn lên khỏi mặt nước, nở bông hoa tròn đầy nhụy hạt, làm đẹp cho đời và tỏa ngát hương thơm.
“Giây phút ấy, bừng lên niềm hỷ lạc
Muôn cung tơ nhã nhạc đón Thánh hiền.”
Người mê thì cứ say đắm trong ngũ dục, cả đời tìm cầu không biết chán, không khi nào biết đủ. Bởi không biết chán, không biết đủ, nên tìm cầu cho đến hết đời, hết kiếp. Gây tạo nghiệp ác ngày càng chồng chất, càng ngày càng lớn thêm. Hàng Bồ tát cũng là một chúng sanh, nhưng các Ngài tu hành biết tri túc, an bần thủ đạo. Không mê tức là giác mà giác là Bồ tát, mê là chúng sanh. Các Ngài đem sự giác ngộ, an vui của chính mình truyền đạt, chỉ bày cho chúng sanh phương pháp loại bỏ Tham, Sân, Si, những phiền não do vô minh vọng chấp, cho thân này là ta, tài sản này là của ta, cứ mãi mong cầu, mãi chấp đắm, nên khổ não càng nhiều. Suốt ngày mãi lo toan như thế, thì làm sao có được mùa Xuân, có được nụ cười thật hoan hỷ, thật cởi mở như Ngài Di Lặc Bồ tát. Có những người quá đau khổ, nhưng người ta vẫn cố gượng cười. Thi sĩ đã viết:
“Cười là tiếng khóc khô không lệ
Người ta cười trong lúc quá chua cay
Cười lên đi cho quên hết tháng ngày
Cho tâm trí vui say trong giấc điệp.”
(Người viết đã quên tên tác giả, xin cáo lỗi)
Mùa Xuân đã về, chúng ta nên chuyển hóa phiền não khổ đau để được mùa Xuân thật sự. Chúng ta nguyện sửa đổi từ bản thân cho đến tâm hồn, tập theo hạnh hoan hỷ của Bồ tát Di Lặc, để không khí trong gia đình và xã hội mãi mãi là mùa Xuân miên viễn.
TKN. Phước Giác (ĐSHĐ-100)
Diễn đọc SC Huệ Pháp