Hơn hai ngàn năm trăm năm có mặt trên đất Việt, Phật giáo được biết đến là tôn giáo của dân tộc, tôn giáo của bình đẳng, từ bi và trí tuệ. Thế nhưng, trong trang sử hào hùng ấy, Phật giáo từng có lúc gặp “thương tổn”, “ức hiếp” trước làn sóng kỳ thị tôn giáo hung hãn. Công lý, nhân quyền và cả tự do tín ngưỡng đều không có vị trí và sự lựa chọn thích đáng cho “Phật giáo đồ”. “Giọt nước tràn ly” đã đến hồi tỏ bày những dồn nén, ấm ức tự bấy lâu. Và nỗi đau của Đạo là một câu chuyện nối dài ở thế kỷ XX mà biến cố Phật giáo năm 1963 chính là bức tranh đau thương nhất, phác họa rõ nét bức thông điệp hòa bình, từ bi và bất bạo động của Phật giáo.
Trong không gian ấy, HT. Thích Quảng Đức đã bật lên ngọn lửa tự thiêu như cố đòi lại những gì vừa bị ngã xuống giữa thời cuộc. Tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, một bậc Vĩ nhân, một bậc Bồ tát đã xuất hiện trong đời – giữa đám lửa vàng quyện thể đại bi. Ngọn lửa bất diệt đó đã khẻ chạm vào vết thương tranh đấu của Phật giáo như để nhắc nhở “Phật giáo đồ” về ý thức đạo pháp và dân tộc. Cũng ngọn lửa ấy, soi sáng đến tận cùng ranh giới bất lương mà giới cầm quyền ‘bất chấp’ đặt tôn giáo riêng mình lên sự lựa chọn của dân tộc, tức Phật giáo – “một tôn giáo đã được dân tộc nuôi dưỡng và nuôi dưỡng lại dân tộc từ hơn 2000 năm lịch sử”. “Hiếu đạo” như Ngài, mấy ai làm được?
Ngọn lửa bất diệt ngày 11/6/1963 đã rót vào tâm tư ‘người trong cuộc’ một bài học lịch sử đau thương nhưng cũng chứa đựng chất ngất tinh thần bi, trí, dũng của hàng Thích tử. Sự kiện vĩ đại ấy không chỉ làm thay đổi cục diện đấu tranh của Phật giáo mà còn kịp thời thức tỉnh lương tri nhân loại lúc bấy giờ.
“Pháp thân cúng dường” của Ngài đã tác thành một báu vật cho dân tộc và Phật giáo Việt Nam; đẩy phong trào tranh đấu của đạo Phật đi xa hơn trong niềm tin bất động. Trái tim bất diệt của bậc xuất trần thượng sĩ đã đi ngược quy luật vật lý; như mãnh liệt xác tín những giá trị chân thật nhất của đạo Phật.
Ai tin nổi, trần gian ai tin nổi!
“Mô Tim” bất hoại, lịch sử có bao giờ?
Để rồi, “Nhục thể kim cang” một lần nữa kết tinh đại nguyện, bơm vào tâm thức quần chúng tín đồ một dưỡng chất tinh thần trong sạch với kỳ vọng nuôi dưỡng và giữ gìn huyết mạch của Đạo. Tinh thần nhập thế ấy đã vượt lên chủ nghĩa cá nhân để hòa vào tình yêu non sông, yêu lấy những bản sắc tinh anh của Phật giáo. Ngã xuống để lá cờ Phật giáo được dương cao; ngã xuống để hận thù, đau thương được chuyển thể trong biển lửa từ bi và trí tuệ; ngã xuống để mở mắt, soi đường cho nhân sinh ra khỏi “nhà lửa Tam giới”, “Gội hào quang xuống tận ngục A tỳ”. Nghĩa cử nào cũng đẹp, cũng cao cả; cũng thánh thiện và đầy khả kính. Mà từ đó, thắp lên niềm tin chân lý cho hàng triệu tín đồ Phật tử Việt Nam cùng tiếp nối; nhất là anh linh 8 vị Thánh Tử đạo hai miền Nam, Trung thuở ấy – những đóa sen bất tử tinh khiết mọc ven đường, giữa những hố bom, vũng đạn.
Bút mực nào tả hết những đau thương mà đạo pháp đã đi qua, nhân chứng nào ngăn kịp dòng xúc cảm để vội an ủi những tổn thất, mất mát mà Phật giáo đánh đổi cho sứ mạng chung của đạo nhà, của hồn thiêng sông núi. Tròn 60 mùa Phật Đản trôi qua – 60 lần ghi tạc “bóng Từ” của những bậc chân nhân “vô úy” một thời thắp lên ngọn đuốc “vị tha” trong lịch sử đạo pháp và dân tộc. Thắp lại ánh đạo vàng muôn thuở ấy, hôm nay môn đệ hậu học chúng con xin được tái hiện, hồi tưởng lại thông điệp từ bi, bất bạo động của Phật giáo qua ngọn lửa thiêng rực sáng của Bồ tát Thích Quảng Đức năm 1963.
“Con chắp tay cúi đầu quy ngưỡng
Phố xưa lấp lánh tấm y vàng
Lửa thiêng bừng thức phương trời cũ
Sài Gòn chất ngất nỗi niềm vương… ”
Nam mô Việt Nam Bồ Tát Vị Pháp Thiêu Thân thượng Quảng hạ Đức Tôn Sư tác đại chứng minh.
NS. Như Nguyệt (ĐSHĐ-117)
Sc Nhẫn Hòa diễn đọc