Phật giáo cùng dân tộc Việt Nam trải qua thăng trầm suốt mấy ngàn năm dựng nước, giữ nước. Trong hoàn cảnh nào Phật giáo vẫn giữ trọn tấm lòng keo sơn không chi chia cắt cho đến thời điểm hiện nay. Trong gắn kết bền bỉ ấy, hoạt động đóng góp không biết mệt mỏi của chư vị danh Tăng chính là chất xúc tác, chất keo kết dính đặc biệt làm cho giềng mối này thêm nồng đượm.
Hình ảnh chư Ni Việt Nam mộc mạc hiền hòa, nếp tu hành mẫu mực cũng có mặt xuyên suốt trong dòng lịch sử hào khí Đông Á ấy. Giai đoạn Hai Bà Trưng cho đến năm 1113 có thể kể đến như Ni trưởng Phương Dung, Ni trưởng Vũ Thị Thục, Ni trưởng Thiều Hoa, Ni trưởng Khâu Ni, Ni trưởng Diệu Nhân… Từ năm 1113 – 1976 có Ni trưởng Tuệ Thông, Ni trưởng Diệu Tuệ, Ni trưởng Huệ Cơ, Ni trưởng Diệu Kim… Từ những nấc thang sơ khởi được chư vị nhọc công khởi sanh, chính là tiền đề hình thành Ni bộ Bắc tông cho đến Phân ban Ni giới Trung ương ngày nay. Trong dòng suy niệm ấy, hôm nay đủ duyên lành đọc dòng bia ký khắc lại hành trạng Ni trưởng Diệu Kim hàng hậu tấn chúng con không khỏi khởi lòng cảm phục sâu xa.
Ni trưởng Diệu Kim, thế danh Trần Quý Tích, sinh năm 1908 (Mậu Thân) tại làng An Phú Tân, quận Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Thân sinh là cụ ông Trần Văn Khê, là Đại hương cả làng An Phú Tân. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Ni trưởng ở hàng thứ 6 trong gia đình có 8 anh chị em là bào tỷ của cố Hòa thượng Thiện Tâm và Thiện Hoa (Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN) cả gia đình Ni trưởng đều quy y với Cụ Tổ Chí Thiền, Tổ đình Phi Lai, Châu Đốc.
Cuộc đời đạo nghiệp Ni trưởng trải qua ba giai đoạn chính.
1. Xuất gia tu học
Sư trưởng xuất gia năm 16 tuổi tại chùa Phi Lai (Châu Đốc) được Cụ Tổ ban pháp danh Diệu Kim tự Hồng Tích, thuộc phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Năm 1927 Ni trưởng tham học tại chùa Giác Hoa tỉnh Bạc Liêu là Ni trường đầu tiên tại miền Nam, Ni trưởng đã giữ chức thư ký của trường.
Năm 1930, mãn lớp tại Giác Hoa, Ni trưởng vân du tìm học kinh luật và pháp sự đàn tràng với quý Sư cụ danh đức: Tổ Khánh Hòa (Bến Tre), Pháp sư Bửu Chung, Sư cụ Chánh Quả (Sa Đéc)… Năm 1933 sau khi Bổn sư viên tịch, Ni trưởng đã đến cầu pháp với Tổ Huệ Đăng (Thiên Thai) được ban Pháp hiệu Bửu Kim.
2. Dấn thân hành đạo
Pháp học nghiêm tầm tinh thông với sở tâm nối tiếp dòng Thánh. Năm 1934 được Tổ Khánh Anh cử về trụ trì chùa Hội Phước, xã Thạnh Mỹ Hưng, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Năm 1935 Ni trưởng đã nghiễm nhiên trở thành vị Pháp sư Ni đầu tiên của Ni giới Việt Nam thời kỳ Phật giáo chấn hưng do Tổ Khánh Hòa khởi xướng. Ni trưởng đã đăng đàn thuyết pháp nhiều nơi, được báo chí Việt ngữ thời ấy như Lục Tỉnh Tân Văn, Duy Tâm Phật Học, … đều có viết bài ngợi khen.
Năm 1937 Tổ Khánh Anh cử Ni trưởng về trụ trì chùa Thiên Phước, làng Tân Hương, tỉnh Long An. Ni trưởng đã khai trường hương và làm Pháp sư giảng dạy kinh Pháp Hoa trong 3 tháng hạ cho chư Ni. Năm 1938 Ni trưởng lãnh trụ trì chùa Giác Hoàng ở Tham Tướng, Cần Thơ. Nơi đây Người đã khai trường hương cho chư Ni và mượn chùa Ông ở gần đó làm trường hạ Tăng. Thỉnh Tổ Huệ Đăng (Thiên Thai) làm chứng minh, Hòa thượng Minh Nguyệt làm Pháp sư, Hòa thượng Pháp Trang làm Thiền chủ. Riêng Ni trưởng là Thiền chủ kiêm Pháp sư bên Ni và làm Hóa chủ của cả hai trường (Tăng và Ni). Cùng năm này Ni trưởng cầu pháp với Tổ Khánh Anh và được ban pháp hiệu Hoàn Phước và năm 1938 Ni trưởng lãnh trụ trì chùa An Hòa, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Năm 1939, Người đến Sa Đéc (Đồng Tháp) lãnh chùa Quan Âm nguyên là công sở thời Pháp thuộc được chuyển làm chùa. Ni trưởng đã nỗ lực tu bổ thành ngôi già lam trang nghiêm tú lệ. Năm 1940, Người lại một lần nữa trở về Cần Thơ để lãnh ngôi Tổ đình Bảo An, và đã an trụ nơi đây mở lớp dạy đạo cho Ni chúng, giáo hóa tín đồ cho đến lúc viên tịch. Năm 1945 Ni trưởng đã vận động tài chánh để Hòa thượng Thiện Hoa thành lập Phật học đường Phật Quang Trà Ôn và thường xuyên hỗ trợ nhiều mặt để Hòa thượng hoàn thành các Phật sự sau này.
3. Hoạt động Phật sự tích cực cho đến viên tịch
Những năm 1956-1963 không chỉ dân tộc mà cả Phật giáo Việt Nam dần bước vào bước ngoặt vô cùng khó khăn trong phong trào kháng chiến chống Pháp và tay sai Ngô Đình Diệm. Đồng thời cũng là những năm tháng chứng kiến hoạt động sôi nổi của người con gái Như Lai đã thấm đẫm tinh thần đạo pháp lẫn hào khí ngút trời dòng máu Việt chảy trong tim.
Năm 1956 Ni bộ được thành lập, Ni trưởng được cung thỉnh vào chức vị cố vấn tối cao. Năm 1963 trong thời kỳ Pháp nạn, Ni trưởng tích cực tham gia và vận động tín đồ hợp cùng chư Tôn đức Tăng Ni đấu tranh bảo vệ đạo pháp. Năm 1970, Ni trưởng đã tiến hành đại trùng tu chùa Bảo An trên nền chánh điện cũ, công trình gồm một tầng trệt và hai tầng lầu.
Năm 1976 (Bính Thìn) vào ngày 2/4 âl dường như dự biết ngày giờ đã đến, Ni trưởng cho gọi đồ chúng đến phương trượng để dặn dò mọi việc hậu sự, mặc dù Người vẫn an nhiên trong sinh hoạt thường nhật. Ngày 5/4 âl, sau khi được các bác sĩ khám bệnh cho Người thông báo thì môn đồ mới hay rằng cỗ xe tứ đại của Ni trưởng dùng để phục vụ cho đạo pháp và nhân sinh đã đến hồi hư hoại theo định luật vô thường! Chiều ngày 6/4 âl trên Thiền sàng trong tiếng niệm Phật “tiếp dẫn Ni trưởng” đã an tường xả báo thân vào lúc 20 giờ cùng ngày, thọ 69 tuổi đời, 53 hạ lạp.
DIỆU pháp thí cam lộ
KIM quang chiếu mê đồ
HOÀN thành phổ tế hạnh
PHƯỚC tinh ảnh Tây Đô.
Có lẽ trăm ngàn năm sau nữa, dòng chữ trên bia ký Trưởng lão Ni Thích Nữ Diệu Kim cũng theo dòng hoại diệt như các bia ký của vua Asoka, chẳng còn nguyên vẹn. Nhưng các khảo cổ học, các nhà sử học, Phật học sẽ làm phận sự của mình phục chế lại nội dung trên; cho hàng hậu học rõ biết Ni giới Việt Nam đã từng xuất hiện vị danh Ni kiệt luân như Ni trưởng Diệu Kim.
TKN. Giác Nguyên (ĐSHĐ-115)
Diễn đọc : SC Đức Tạng