Nhìn về cuộc Cách mạng công nghiệp ở phương Tây điểm nổi bật chính là “Ý thức về việc loại bỏ giai cấp, đảm bảo công bằng xã hội”. Điều này cho thấy bình đẳng là nền tảng hòa bình và thái bình. Đặc biệt là bình đẳng giới dành cho người nữ, xét trên hai khía cạnh chính: vị trí người nữ trong nền sản xuất tư bản và gia đình càng cho thấy tầm thiết yếu của sự bình đẳng.
Địa vị người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giới chủ tư bản bóc lột sức lao động của phụ nữ bằng cách kéo dài thời gian lao động trong môi trường thiếu vệ sinh, khí thở. Trong bộ Tư bản, C. Mác chỉ ra: “Trong những tuần lễ cuối tháng Sáu 1863, tất cả các tờ báo hàng ngày ở Luân Đôn đều đăng một tin với đề tài “giật gân”: “Death from simple overwork” (Chết vì lao động quá sức1). Nội dung bài viết nói về cái chết của chị công nhân may thời trang Mê-ri An-nơ U-ô-cly mới 20 tuổi, làm thuê cho xưởng may thời trang hoàng tộc, do bà Ê-li-dơ làm chủ.”
Địa vị người phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã vạch trần góc khuất của hôn nhân và gia đình tư sản, người phụ nữ trở thành phương tiện và công cụ sản xuất, nô lệ của đàn ông: “Đối với người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất. Cho nên, nghe nói công cụ sản xuất phải được đem dùng chung thì tất nhiên là hắn kết luận rằng chính đàn bà rồi cũng phải chịu cái số phận chung là bị xã hội hóa… Các ngài tư bản của chúng ta chưa thỏa mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mại dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt2.”
Còn trong Phật giáo thì sao?
Phật giáo hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công Nguyên đến nay đã trải qua hơn 2.500 lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển có thể phân thành ba thời kỳ là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái và Phật giáo Đại thừa.
Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy – tức thời Đức Phật còn tại thế cho đến sau 100 năm Phật nhập diệt. Thời kỳ Phật giáo Bộ phái – khoảng đầu thế kỷ II trước Công Nguyên sau Phật nhập diệt 100 đến 500 năm. Thời kỳ Phật giáo Đại thừa – sau Phật nhập diệt 600 năm. Ở các mốc lịch sử Phật giáo này có một điểm chung đó là người nữ luôn chịu vấn nạn “trọng nam khinh nữ” hay kỳ thị người nữ được đem lại từ hệ thống giai cấp của Bà-la-môn giáo. Dù thừa nhận có “sự khác nhau giữa cá thể”, Phật chủ trương bản chất căn bản của con người là giống nhau, cho dù có thể có sự khác nhau do di truyền, môi trường và biệt nghiệp, đồng thời không thừa nhận bốn giai cấp: Bà-la-môn (brāhmaṇa), vua chúa (kṣatriya), thương gia và nông nghiệp gia (vaiśya) nô lệ (śūdra).
Trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, Đức Phật cho phép người nữ xuất gia, một mặt kiện toàn hệ thống Tăng già với đầy đủ tứ chúng, đồng thời xác nhận khả năng chứng đắc Thánh quả A-la-hán của họ; mặt khác đã gián tiếp đưa vị trí người nữ lên ngang hàng với nam giới. Khi Phật giáo diễn ra sự phân chia bộ phái, xuất hiện quan điểm tư tưởng trái với lời dạy của Thế Tôn. Cụ thể phái Thượng tọa Bộ đưa ra quan điểm nữ nhân không thể chứng A-la-hán, quan điểm này tồn tại đến ngày nay dẫn đến ở một số nước không có Tỳ-kheo-ni chỉ có tu nữ.
Nhằm hiểu rõ về những điều đã nêu trên người viết trình bày quan điểm về bình đẳng của Phật giáo thông qua sự kiện thành lập Ni đoàn và xác chứng nữ nhân có thể đạt Thánh quả. Trên cơ sở đó làm rõ tánh “Bình đẳng giới trong Nữ giới Phật giáo.”
a. Đức Phật cho phép người nữ xuất gia
Như chúng ta đã biết người nữ có khả năng không thua kém nam giới. Trong những lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hóa có người nam tham dự thì cũng có nữ giới; nhưng vấn nạn “trọng nam khinh nữ” ở Trung Hoa, Ấn Độ là chuyện không thể phủ nhận. Trong kinh điển Đức Phật không trực tiếp nhắc đến vấn đề này nhưng có nhiều bài kinh Đức Phật đã gián tiếp xóa bỏ khoảng cách, nâng người nữ lên ngang bằng nam giới như kinh Thiện Sinh người chồng có nghĩa vụ đối đãi với vợ “Này Thiện Sinh, chồng cũng phải có năm điều đối với vợ: 1. Lấy lễ đối đãi nhau. 2. Oai nghiêm mà không nghiệt. 3. Tùy thời cung cấp y. 4. Tùy thời cho đồ trang sức. 5. Phó thác việc nhà.”
Hay kinh Tăng Chi Bộ, bài kinh Cha Mẹ của Nakula “Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ: “Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa.” Thưa gia chủ, chớ có nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu. Thưa gia chủ, sau khi gia chủ mệnh chung, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa.” Nghĩa của đoạn kinh khá dễ hiểu, chỉ rõ mẹ của Nakula có đầy đủ năng lực thay thế chồng làm chủ, gánh vác gia đình khi cha Nakula qua đời.
Không chỉ vậy, Đức Phật còn cho phép người nữ xuất gia. Thật ra, sự việc này không phải đến khi Anan xin Đức Phật mà đã có nhân ngay từ khi Ma Ba-tuần thỉnh Phật Niết-bàn “Thuở xưa,… ở Uất-tỳ-la bên dòng sông Ni-liên-thuyền dưới gốc cây A-du-ba-ni-câu-luật, Phật khi mới thành chánh giác, tôi đã đến chỗ Như Lai mà khuyên mời Ngài hãy nhập Niết-bàn” khi ấy Như Lai trả lời tôi rằng “Hãy thôi! Hãy thôi! Ta tự biết thời. Như Lai nay chưa nhập Niết-bàn vì còn đợi chúng Tỳ-kheo của Ta hội tụ đủ… lại còn có các Tỳ-kheo-ni… đều chưa hội tụ đủ.”
Điều này cho thấy Đức Phật đã ngầm thiết lập hệ thống Tăng đoàn đầy đủ tứ chúng ngay sau khi thành đạo. Vậy Anan thỉnh Phật chỉ là hội đủ duyên và đúng thời để Đức Phật đưa ra quyết định cho phép Tăng đoàn có chúng Tỳ-kheo-ni. Ở đây chúng ta xem xét nội dung bài kinh MahāPajāpatī Gotamī trong kinh Tăng Bộ, Phẩm Gotamī để thấy rõ hơn.
Khi vua Suddhodana qua đời, Anan và Rāhula theo Phật xuất gia, ý chí xuất ly đến với Mahāpajāpatī một cách mãnh liệt. Cơ duyên đã đến khi Đức Phật trở lại quê nhà để hòa giải vụ tranh chấp nguồn nước sông Rohini giữa hai dòng tộc Sākyā và Koliya. Di mẫu Mahāpajāpatī liền đến gặp Đức Phật tại vườn Nigrodha, ngoại thành Kapilavatthu và xin Phật cho phép phụ nữ được xuất gia. “Mahāpajāpatī Gotamī bạch Thế Tôn: Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.”
Mahāpajāpatī Gotamī bạch Thế Tôn ba lần, đáp lại lời thỉnh cầu, Thế Tôn trả lời: “Thôi vừa rồi, này Gotamī, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng”. Không nản chí, bà rũ bỏ trang sức, xuống tóc, đắp y, cùng với 500 người nữ dòng họ Sākyā, chân trần đi bộ đến Vesāli để cầu xin xuất gia. Đoạn đường từ Kapilavatthu đến Vesāli dài 150 dặm. Khi đến nơi, đôi chân sưng phồng và rướm máu, mình mẩy lấm đầy bụi đường, kiệt quệ, hốc hác. Tôn giả Anan, với lòng xót thương đã thay mặt Mahāpajāpatī Gotamī xin Phật ba lần, nhưng Thế Tôn vẫn từ chối. Bằng sự khéo léo, Tôn giả đã tiếp cận vấn đề theo một hướng khác đó là: kể lại ân của Mahāpajāpatī Gotamī đối với Phật. Nhờ tiếp cận theo hướng này, Thế Tôn đã cho phép người nữ xuất gia với điều kiện giữ “tám kính pháp”, Mahāpajāpatī Gotamī trở thành vị Bhikkuni đầu tiên trong Tăng đoàn.
Chỗ này một nghi vấn được đưa ra: Trì hoãn cho người nữ xuất gia phải chăng Đức Phật cũng theo xu thế xã hội Ấn Độ thời bấy giờ là trọng nam khinh nữ? Hay chỉ là sự ngộ nhận của một số người nào đó hoặc chúng ta chưa hiểu hết ý của Phật. Ở đây người viết cho rằng có hai nguyên nhân đưa đến sự trì hoãn của Thế Tôn.
Thứ nhất, ở Đông Phương có hai nền văn minh cơ bản là Trung Hoa và Ấn Độ; Trung Hoa chịu ảnh hưởng bởi đạo Khổng đã khép kín người nữ sau cánh cửa gia đình; xã hội Ấn Độ thời bấy giờ cũng vậy với bốn giai cấp chính Bà-la-môn (Brahman), Sát-đế-lợi (Kshastriya), Vệ-xá (Vaisya), Thủ-Đà-La (Sudra) đã tạo ra sự bất bình đẳng, đặc biệt là sự phân biệt nam nữ như: Ra khỏi nhà phải che mặt, không có quyền trong các hoạt động xã hội, không có mặt trong lãnh vực tôn giáo… Do vậy, nếu ngay những ngày đầu thành lập Tăng đoàn, cho người nữ xuất gia là đi ngược lại với tư tưởng xã hội Ấn Độ chắc chắn sẽ bị phản đối.
Thứ hai, đời sống Tăng đoàn thời Đức Phật thường ở trong rừng hay gốc cây, nay đây mai đó, nuôi sống thân mạng bằng khất thực. Người nữ không phù hợp với đời sống du hóa này, có nhiều nguy hiểm có thể ảnh hưởng trực tiếp đến họ như thú dữ tấn công, bị cướp, mưa gió khắc nghiệt gây bệnh (mạng nạn), bị hãm hiếp (phạm hạnh nạn). Đời sống định cư phù hợp với người nữ hơn. Vì vậy, theo quan điểm của Thượng tọa Hạnh Bình cho rằng “Theo tôi, nội dung chính mà Anan thưa thỉnh Đức Phật là vấn đề: nên chăng cho nữ giới xuất gia với điều kiện cuộc sống định cư” chứ không phải người nữ được xuất gia vì công ơn nuôi dưỡng của Mahāpajāpatī Gotamī.
Như vậy, trên phương diện giáo đoàn, đã xuất hiện giáo đoàn Tăng và giáo đoàn Ni. Vậy còn về mặt tu tập chứng quả thì sao? Đó là điều ta cần tìm hiểu ở mục kế tiếp.
b. Đức Phật xác nhận người nữ cũng có khả năng chứng quả vị A-la-hán
Phần phân tích trên đã làm rõ được quan điểm Thế Tôn không đồng tình quan điểm “trọng nam khinh nữ”, tuy không chỉ rõ vấn nạn này trong Kinh điển nhưng việc cho phép thành lập Ni đoàn đã gây nên biến động lớn trong mọi giới của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Nói cách khác, Thế Tôn là một nhà cải cách vĩ đại; về xã hội giải phóng người nữ khỏi hệ thống bốn giai cấp Bà-la-môn, trong Phật giáo Người thiết lập bình đẳng về mặt Giáo đoàn thông qua việc cho phép nữ giới xuất gia sống đời sống phạm hạnh trong Tăng đoàn Phật giáo. “Ví như, này Paharada, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhù, sông Mahī, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Paharada, có bốn giai cấp này: Sát đế lỵ, Bà la môn, Phệ xá, Thủ đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng từ trước, và chúng trở thành những Sa môn Thích tử” vậy dù nam hay nữ ở giai cấp nào nếu xuất gia sống đời sống phạm hạnh thì sẽ trở thành Sa môn Thích tử.
Xuất gia trở thành Sa môn chưa phải là mục đích cuối cùng, giáo lý Phật giáo hướng người tu tập đạt đến “giác ngộ giải thoát”. Chân lý giải thoát không lựa chọn người chứng đắc mọi chúng sanh phát tâm tu tập, hành trì chánh pháp thoát ly ba độc “tham – sân – si” đều đạt đến kết quả cứu cánh như nhau (Thánh quả A-la-hán).
Khi xem xét vào Tạng luật Nam Truyền – bộ Hợp Phần trong Tiểu Phẩm, chương Tỳ-kheo-ni; một lần nữa Đức Phật cho thấy Ngài là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã nâng cao vị trí của người nữ lên mức quan trọng nhất, đồng thời xác nhận nữ tính không phải là trở ngại cho việc tiến bộ tâm linh.
“Bạch Ngài, người nữ sau khi xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố, có khả năng chứng ngộ quả vị Nhập Lưu, hoặc quả vị nhất Lai, hoặc quả vị Bất Lai, hoặc phẩm vị A-la-hán hay không?”
“Này Ananda, người nữ sau khi xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố, có khả năng chứng ngộ quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, luôn cả phẩm vị A-la-hán.”
Trong “Chú giải Trưởng lão Ni kệ” tín nữ Sakulā xuất gia nàng an trú nơi thiền quán cộng với tinh cần sau một thời gian ngắn đạt được chứng đắc “với tâm an lạc hoan hỷ mãnh liệt, ta xuất gia và chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, ta đã chứng thánh quả A-la-hán.”
Lại tiếp tục xem trong Đại kinh Vacchagotta, Đức Phật trả lời du sĩ ngoại đạo Vacchagotta không chỉ một hai hay năm trăm mà nhiều hơn Tỳ-kheo-ni chứng đắc “Này Vaccha không phải chỉ một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những Tỳ-kheo-ni, đệ tử của ta, đã đoạn trừ các lậu hoặc, với thượng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát và tuệ giải thoát.”
Từ các cơ sở dữ liệu Kinh (kinh MahāPajāpatī Gotamī trong kinh Tăng Bộ, Đại kinh Vacchagotta trong Trung Bộ kinh); Tạng luật Nam Truyền – bộ Hợp Phần trong Tiểu Phẩm, chương Tỳ-kheo-ni; Chú giải Trưởng lão Ni kệ. Người viết đi đến kết luận nữ giới có đầy đủ khả năng chứng đắc Thánh quả A-la-hán là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
Để kết luận, chúng ta có thể nói rằng dù xét trên khía cạnh nào: Luận điểm sinh học, Luận điểm nhân chủng học, Luận điểm pháp lý xã hội, Luận điểm đạo đức, Luận điểm tâm linh cũng cho thấy Đức Phật – một nhà cải cách vĩ đại đã thành công khi hiện thực hóa việc xóa bỏ quan điểm “trọng nam khinh nữ” tại Ấn Độ thời bấy giờ thông qua quyết định cho nữ nhân xuất gia và xác nhận họ có thể đắc Thánh quả A-la-hán. Ngược lại, người nữ được xuất gia và chứng Thánh quả không chỉ giúp hoàn thiện hệ thống Tăng đoàn với đầy đủ Tứ chúng theo ý Thế Tôn mà còn đóng góp một phần quan trọng trong việc duy trì và bảo vệ Chánh pháp.
Ngày nay, vấn nạn kỳ thị nữ giới vẫn còn tồn tại nhất là ở các nước nghèo đói kém phát triển, chính điều này đã đưa đến nhiều cuộc biểu tình, đấu tranh đòi quyền bình đẳng. Thì Phật giáo đã mở ra cho người nữ một cơ hội tuyệt vời đó là đặt họ lên một địa vị thuận lợi với khả năng đạt đến Niết-bàn tối thượng.
Tóm lại, đạo Phật hình thành ngay trong thế gian này, giáo lý của nhà Phật là giáo lý dành cho con người thế gian. Thánh quả A-la-hán là một món quà tuyệt vời mang hương vị giải thoát, bất kỳ ai có khả năng đoạn tận tham, sân, si đều có thể đạt đến không phân biệt nam, nữ, màu da, giai cấp, chủng tộc.
TN. Giác Nguyện
Sc Nhuận Anh diễn đọc
- C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 23, NXB. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.373.
- C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 4, NXB. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.623.