Dẫn nhập
Nếu văn học Phật giáo Việt Nam từng xuất hiện cuộc tranh biện sắc sảo, gay gắt được nhìn thấy từ “Mâu tử – Lý Hoặc Luận” thì tại Trung Quốc, “Hộ Pháp Luận” cũng là một tác phẩm thể hiện rõ khát khao ‘cải tà hiển chánh’, bảo vệ đạo Phật của Trương Thương Anh, tức Vô Tận cư sĩ – một Nho gia trí thức, từng trọng Nho báng Phật dưới thời Tống Huy Tông. Sự ra đời của Hộ Pháp luận không chỉ đập tan định kiến, ngộ nhận sai lầm cho các đối tượng dèm pha Phật pháp mà nó còn là sự hồi tâm chuyển ý, là lời sám hối chân thành của Trương Thương Anh.
Ngang qua 12 vấn đề được nêu lên, tác phẩm đã phác họa rõ sự ngộ nhận Phật giáo của tầng lớp Nho gia, nhưng quý giá hơn là những lời viện dẫn chứng minh cho sự bất hại, vô tội và tích cực của Phật giáo. Nhằm chấn chỉnh lại sự xuyên tạc của dư luận cũng như đem lại một khía cạnh nhìn nhận tích cực, chính đáng cho đạo pháp, người viết xin được chọn chủ đề “Đệ tử Phật không làm mà vẫn có cơm ăn” để làm đề tài khảo luận. Bằng những phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích,… hi vọng có thể thức tỉnh được vai trò của tự thân cũng như góp phần soi sáng cho góc nhìn đa chiều của Phật giáo được tròn trĩnh và hoàn thiện trước những làn sóng khen chê, kỳ thị đến từ xã hội.
Nội dung
Từ nhan đề được đặt ra, chúng ta cần xét đến hai phạm trù lớn của đề bài là “không cày ruộng” và “có cơm ăn”. Nội hàm gần nhất của câu tục ngữ có ý dèm chê: Đệ tử Phật ngồi mát ăn bát vàng. Nói khác, không làm lụng nhưng vẫn được hưởng thụ dựa trên sức lao động của người khác. Song, vấn đề này không chỉ Âu Dương Tu đề cập đến sau này mà ngay từ thời Phật tại thế đã có sự cật vấn bởi một Bà-la-môn tên Kasi Bhàradvàja. Tuy nhiên, với tuệ giác của đức Phật, Ngài đã khéo lý giải và thuyết phục vị ngoại đạo này đi theo một nhận thức khác về công việc của Phật. Câu trả lời của đức Thế Tôn đến nay, có thể nói là một tuyên ngôn mà không ai có thể cáo buộc được đời sống khất sĩ thuần túy của hàng Tăng lữ:
“Lấy tín tâm làm giống
Các thiện làm ruộng tốt
Tinh tấn là trâu kéo
Trí tuệ là ách cày
Hổ thẹn là lưỡi cày
Niệm là người cầm cày
Điều thuận thân, miệng, ý
Trì giới dây cột cỏ
Cày tan cỏ phiền não
Trời mưa ngọt đúng lúc
Cào cỏ là tâm thiện
Thu hoạch cây lúa thiện
Đưa về nơi an ổn
Chắc chắn được an toàn
Ta cày bừa như vậy
Nên được quả cam lộ
Vượt lên khỏi ba cõi
Không trở lại luân hồi”1
Đứng về phương diện giáo lý để nhìn nhận thì “không làm mà có ăn” là một cặp nhân quả sai lầm, trái chiều nhận thức. Chính vì thế, vấn đề này cần được đập vỡ đầu tiên chính là vế câu “đệ tử Phật không cày ruộng” mà Âu Dương Tu đặt ra. Trước tiên, xét từ trong chí nguyện xuất gia, những người đến cửa Phật không phải để cầu mong sự nhàn rỗi, cũng chẳng phải để trốn tránh gánh nặng ở đời. Bổn hoài xuất gia vốn là một nghĩa cử cao đẹp, xuất trần được nhìn thấy từ thể chất đến tinh thần. Do vậy, nói theo nghĩa gần nhất và thực tế nhất, tu sĩ Phật giáo là những con người ly gia, độc thân, tự lập; không cần cầu sự hầu hạ, cơm bưng nước rót. Ngay trong pháp khất thực do Phật chế định, mỗi người phải tự túc thân hành mới có vật thọ dụng, chứ không phải bổn đạo dâng tận miệng cho các Thầy. Ngày nay, với đời sống định cư, chư Tăng được Phật tử thương tình đến nấu cơm cháo cho đôi bữa. Tuy nhiên, điều này không mang tính lệ thuộc và thụ động chờ đợi tín chúng giúp đỡ, cúng dường. Vì hàng cư sĩ tại gia còn nhiều gia duyên ràng buộc, mà bản thân tu sĩ vốn là lớp người luôn chủ động trong mọi sinh hoạt và hoằng truyền chánh pháp.
Nếu nói đệ tử Phật không làm thì chẳng khác nào bêu rếu họ thuộc lớp người tàn phế, bại liệt, chẳng thua kém giới tật nguyền. Điều này cũng đã được Thiền sư Bách Trượng răn nhắc: “Con người sống ở đời, nếu không tự mình lao động, thì người đó chẳng phải trở thành phế nhân sao?2” Do vậy, giai thoại nhà thiền thường nêu cao khẩu hiệu “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực.3” Thậm chí, luật bổn nhà Phật cũng chế định rõ ràng: khi thâu nhận môn đồ, đệ tử phải có đầy đủ lục căn để một phần ngăn ngừa sự tỵ hiềm từ các thành phần bất hảo.
Hơn thế, đường đến của đạo Phật không dung chứa những người lười biếng. Vì trong 37 phẩm trợ đạo, yếu tố tinh tấn luôn là điểm then chốt cho người học đạo. Sự tinh cần, nhiệt tâm ấy luôn được răn dạy trong hệ thống giáo lý cũng như kinh điển. Ngay cả biểu hiện nhún nhường, khép mình trong nghĩa cử ‘xin ăn’ (khất thực) của nhà Phật cũng không ngoài mục đích hạ thấp bản ngã con ông cháu cha của mình – tức cái dòng dõi quyền quý từ 25 thế kỷ trước, đồng thời cũng để tạo ruộng phước điền cho tín đồ gieo trồng, vun bồi công đức. Đáng tiếc, người đời cứ lầm tưởng, ngộ nhận nghĩa cử khất thực của chư Tăng và xem đó là sự xin ăn của những người làm biếng. Trong khi đó, 37 phẩm trợ đạo – con đường đi đến bậc Thánh đã có đến 4 chánh cần và kể riêng bát chánh đạo cũng tồn tại cả chánh tinh tấn, chánh nghiệp, chánh mạng. Giả sử, nếu đệ tử Phật chỉ một mực ngửa mặt trông chờ những hạt cơm bố thí đầy thương hại của đàn na thì những giáo lý trên sẽ trở thành điều hư dối khi truyền dạy cho người. Và thật khó lọt tai nếu thuyết giảng rằng: chánh mạng là đi xin ăn chân chánh, mà xin ăn chân chánh là xin ăn nhờ sự thương hại của người khác. Vô tình, nó sẽ làm mất đi sự thanh cao, mầu nhiệm của đạo Phật.
Nhìn nhận ở gốc độ thực tiễn, nếu không cày thì lấy đâu ra chùa to Phật lớn, đạo tràng đông mà góp phần xây dựng cho xã hội cường thịnh? Tìm về lịch sử, đệ tử Phật nếu không trui rèn, mài dũa thì làm sao đủ tin cậy để các quân vương trao vận nước cho các quốc sư lúc dân tộc, xã tắc lâm nguy? Và rồi, ai bước vào chiến trận khi non sông, Tổ quốc đang treo trước họng địch? Ai ra công trường, vào nhà trẻ, xuống đường phố khi thực dân kéo súng bóp chặt cổ họng hàng triệu con dân và tín đồ tôn giáo? Ai cày bừa để cho mãnh ruộng phước đức của con người được chuyển hóa cùng nhịp đập nhân sinh? Càng thế, cái trách nhiệm lợi đạo, ích đời và hoằng dương Phật pháp, giáo dục tâm linh do ai gánh vác? Trong khi, một ngôi chùa mọc lên là bớt đi không biết bao nhiêu nhà tù, ngục khám. Lợi ích vô hình đó, sao dám nói nhà tu không làm mà có ăn.
Tuy nhiên, tất cả những Phật sự ấy không có nghĩa đồng hóa con đường tu hành như một cái ‘nghề’ nhằm cung ứng thị trường vật chất. Nghề được hiểu theo văn bản kê khai lý lịch cá nhân của tu sĩ thường được chỉ cho một nghề nghiệp tôn giáo. Trong đó, phần lớn đều ngộ nhận đạo Phật ngã theo thiên hướng của một đạo giáo chuyên hành nghề tụng kinh, niệm chú, ma chay,… Kỳ thực, nhà tu không làm ra thóc gạo, máy móc mà sản phẩm của họ là những con người có đạo đức và trí tuệ.
Xét đó, rất có thể ‘không làm’ ở đây là do người đời nhìn vào sự nghiệp vô sản của người tu nhưng kỳ thực người tu đã từ bỏ các quyền thế, tích trữ gia sản, bỏ sự lao động mang tính thương trường và lợi nhuận. Tất cả những điều đó giúp cho người học đạo tránh được mối hại về say đắm trong danh vọng, địa vị của một ông hoàng tu sĩ. Cũng thể hiện rõ sự đối lập giữa đời sống của những người tu học chân chánh và đời sống thường nhật của chúng sanh.
Riêng nói về khía cạnh “có cơm ăn” mà Âu Dương Tu đặt ra ở vế sau, tức ám chỉ cho đệ tử Phật là lớp người ăn bám xã hội. Đáng tiếc, người xuất gia vốn không vì cầu cạnh cơm ăn, áo mặc. Nếu chỉ vì miếng cơm, manh áo mà phải xuất gia cầu đạo thì đạo Phật chẳng thua gì cái kiểu ‘mượn đạo tạo đời’. Tuyệt nhiên, đệ tử Phật chân chánh không cầu cạnh những thứ đó. Bởi lẽ, so với mọi công dân thì một vị Tỳ kheo quá đủ tuổi vị thành niên và đủ nhận thức để lựa chọn tương lai cho mình. Họ thừa sức để nuôi sống bản thân thì hà cớ gì phải nương gá vào cái ‘đạo xin ăn’ ấy (hiểu theo kiểu của người đời) cho tai tiếng, cho bị thiên hạ nguyền rủa? Nếu chỉ nương bóng cửa Phật để kiếm cơm, bòn áo thì còn đâu cái lý tưởng thanh cao: “đem lại hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người4”, còn đâu cái lý tưởng cứu nhân độ thế?
TN. Như Hạnh (ĐSHĐ-100)
Diễn đọc: SC Quảng Hiếu
- Sa Môn Thích Tịnh Hạnh, “Đại Tập 7 – Bộ A Hàm VII – Kinh Tạp A-Hàm Số 3, Biệt Dịch Kinh Tạp A- hàm- Quyển XIII”, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc, 2000, tr. 653.
- Tống Thiên Thiên – Dịch giả Thoại Trang, “Đàm Phật thuyết đạo ngộ nhân sinh”, NXB. Dân Trí, 2020, tr. 240.
- HT. Thích Thanh Kiểm, “Thiền Lâm Bảo Huấn”, NXB. Thanh Niên, 2020, tr. 49.
- Kinh Tăng chi, tập 3, Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, 2005, tr.125.