Về việc xác định chính xác thời điểm hình thành Ni đoàn, cho đến nay, vẫn chưa có sự đồng nhất giữa các nguồn tư liệu hiện còn. Nhưng những yếu tố tiền đề cần thiết dẫn đến sự hình thành Ni đoàn – đánh dấu việc Thế Tôn đồng ý cho Ni giới được tham gia Giáo hội Tăng già – thì không có gì phải bàn cãi.
1. Bát Kỉnh Pháp: Duyên khởi và hàm ý
1.1. Duyên khởi
Phát tâm tìm cầu Chánh pháp, muốn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sống trong Pháp luật của Đức Phật, đó là chí nguyện kiên cường của Di Mẫu Kiều Đàm cùng 500 thể nữ dòng họ Thích-ca. Sau khi đã từ chối nhiều lần để thử thách họ, cuối cùng, Đức Phật cũng đồng ý cho Bà và 500 thể nữ xuất gia với điều kiện là suốt đời họ phải tuân thủ tám pháp cung kính tùng phục chư Tăng mà Ngài đặt ra. Tám pháp đó được biết đến với tên gọi Bát Kỉnh Pháp. Tám pháp này, ví như phòng chống nước lũ, khéo đắp sửa đê điều, không để nó rỉ chảy1.
Đức Kiều Đàm Di và 500 thể nữ đều hoan hỷ chấp thuận như tiếp nhận được vòng hoa trang sức, rồi kể từ đó, Tăng đoàn có đầy đủ hai bộ Tăng già và phát triển cho đến ngày hôm nay. Nội dung của Bát Kỉnh Pháp như sau:
(1) Dù Tỳ-kheo-ni đã 100 tuổi hạ, khi gặp Tỳ-kheo mới thọ giới vẫn phải ân cần tiếp rước, cung kính tôn trọng, đứng lên lễ bái.
(2) Tỳ-kheo-ni không được mắng chửi, quở trách, phỉ báng Tỳ-kheo.
(3) Tỳ-kheo-ni không được cử tội Tỳ-kheo.
(4) Thức-xoa-ma-na khi học giới xong phải đến bên Tỳ-kheo cầu xin thọ Cụ túc giới.
(5) Khi Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa thì phải đối trước hai bộ Tăng để hành pháp ý hỉ (Ma-na-đỏa) trong vòng 15 ngày.
(6) Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng phải đến Tỳ-kheo để xin dạy bảo.
(7) Tỳ-kheo-ni không được An cư Kiết hạ nơi không có Tỳ-kheo ở.
(8) Tỳ-kheo-ni Kiết hạ An cư xong, phải đến bên Tỳ-kheo, cầu xin chỉ rõ về ba sự thấy, nghe và nghi.
1.2. Hàm ý
Thời Đức Phật còn tại thế, xã hội Ấn Độ phân tầng giai cấp rất sâu sắc. Bị áp đặt bởi luật Manu vốn đã được chấp nhận từ lâu đời, người phụ nữ bị cấm đoán và coi thường đủ điều, không có quyền tự quyết, mất cả sự tự do, mọi việc hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới. Cho nên, dù là hàng Tăng lữ, vẫn có thể còn mang định kiến.
Đức Phật nhìn thấy điều đó nên Ngài chế ra Bát Kỉnh Pháp để chuyển hóa tâm tưởng của chư Tăng. Các thầy thấy rằng nữ giới có bình đẳng với chư Tăng là bình đẳng về phần tâm linh, bình đẳng trên cương vị Phật tánh và bình đẳng trên phương diện giác ngộ giải thoát, chứ không bình đẳng về chức năng, quyền hạn thân ngũ uẩn vật lý này. Đức Thế Tôn thiết lập quy chế Bát Kỉnh Pháp, tạo mối hòa hảo tốt đẹp trong Tăng đoàn để cùng nhau phát triển Giáo hội Tăng già. Ví như trong một gia đình hạnh phúc, cha mẹ nhân từ, con cái hòa thuận thì người anh trai có trách nhiệm giáo huấn, bảo hộ em gái mình.
Liên hệ đến những điều Đức Phật chế định, ta thấy:
“Cứ mỗi nửa tháng phải đến xin chư Tăng dạy bảo”, nghĩa là người anh cả phải quan tâm đến em gái của mình.
“Tỳ-kheo-ni không được mắng chửi, cử tội Tỳ-kheo”, cũng như bổn phận người em gái không được vô phép, hỗn hào, phải tôn trọng anh trai.
“Không được An cư Kiết hạ nơi không có Tỳ-kheo ở”, thể hiện tinh thần trách nhiệm bảo hộ của người anh cả.
“Tỳ-kheo-ni sau 3 tháng An cư Kiết hạ thì phải đến chỗ Tỳ-kheo cầu xin chỉ rõ về ba sự thấy, nghe, và nghi”. Đây là tinh thần trách nhiệm giáo huấn của người anh.
Như vậy, Bát Kỉnh Pháp giúp cho Ni giới có cái tâm và cái tầm nhìn về Đức Phật. Pháp luật của Ngài ban hành là tạo cho Ni đoàn có niềm tin vững mạnh, có sự khích lệ bảo hộ của cộng đồng Tăng già.
2. Đức Phật hóa giải nghi vấn trong Tăng đoàn và ngoại đạo
Lúc bấy giờ, khi Đức Phật cho phép nữ giới xuất gia, đồng thời thành lập Ni đoàn, thì Tôn giả Ananda và du sĩ ngoại đạo Vacchagotta đã có một số chất vấn như sau:
* Tôn giả Ananda hỏi:
– Bạch Thế Tôn, liệu nữ nhơn sau khi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình có thể chứng được các quả vị hay không?
Đức Phật đã nói:
– Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự Lưu quả, Nhất Lai quả, Bất Lai quả hay A La Hán quả2.
* Du sĩ ngoại đạo Vacchagotta hỏi Đức Phật:
– Thưa ngài Cù Đàm, ngoài các Tỳ-kheo Tăng, liệu có một Tỳ-kheo-ni nào đã đoạn trừ các lậu hoặc chứng đạt thắng trí ngay trong hiện tại không?
Đức Phật trả lời:
– Không phải chỉ một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những Tỳ-kheo-ni đệ tử của ta, đã đoạn trừ các lậu hoặc, với thượng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát và tuệ giải thoát3.
3. Những thành quả của Ni đoàn khi sống trong Pháp luật của Đức Phật
Sau khi nữ giới được Đức Phật cho phép xuất gia và gia nhập Tăng đoàn, Ni đoàn phát triển nhanh chóng, thật sự lớn mạnh, nhiều Tỳ-kheo-ni hạ thủ công phu để tiến đức nghiêm thân, đạt kết quả hết sức khả quan. Điển hình là 72 vị trong Trưởng lão Ni kệ đắc quả A-la-hán, một số vị tiêu biểu đã được Đức Thế Tôn xác nhận lúc Ngài ở Tịnh xá Kỳ Viên.
(1) Nữ Tôn giả kinh nghiệm đệ nhất và lãnh đạo Ni đoàn, Màhàpajapati Gotami.
(2) Nữ Tôn giả Khemà, Trí tuệ tối thắng.
(3) Nữ Tôn giả Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Thần thông tối thắng.
(4) Nữ Tôn giả Patàcàrà (Bảo hộ nữ nhân), Trì luật tối thắng.
(5) Nữ Tôn giả Dhammadinnà, Thuyết pháp tối thắng.
(6) Nữ Tôn giả Nandà, Thiền định tối thắng.
(7) Nữ Tôn giả Sonà, Tinh tấn tối thắng.
(8) Nữ Tôn giả Sakulà, Thiên nhãn tối thắng.
(9) Nữ Tôn giả Bhadd| Kundalakes|, Lĩnh hội ý pháp tối thắng.
(10) Nữ Tôn giả Bhaddà Kapilànì, Nhớ đến các thời quá khứ tối thắng.
(11) Nữ Tôn giả Bhaddà Kaccana, Chứng đạt đại thắng trí tối thắng.
(12) Nữ Tôn giả Kisàgotami, Khổ hạnh tối thắng.
4. Đức Phật kiết giới để thống nhiếp Ni đoàn
Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di cung kính tiếp nhận Bát Kỉnh Pháp và Đức Thế Tôn còn trao thêm 10 giới Sa-di-ni. Nhờ tài lãnh đạo, huấn luyện khéo léo của Tổ Kiều Đàm, Ni đoàn phát triển nhanh chóng, thật sự lớn mạnh nhưng trong chúng lại sinh ra những hiện tượng vi phạm nguyên tắc sống, làm cản trở lộ trình giác ngộ giải thoát. Vì vậy, Đức Phật đã chế định thêm nhiều Giới Luật cho Ni giới để phòng vệ thân tâm, không rơi vào điều xấu ác, làm tổn giảm đạo đức. Kết quả là Tỳ-kheo-ni phải giữ 348 giới.
Giới Luật của Đức Phật thiết lập gồm đủ hai yếu tố: Pháp luật và Đạo đức. Đó chính là những điều kiện cần và đủ để duy trì dòng lưu chuyển mạng mạch Phật pháp. Từ nền tảng Giới Luật, thông qua Tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ) mà kiện toàn nhân cách đến Thánh hạnh. Tu tập pháp môn căn bản này là loại trừ được phiền não Tham, Sân, Si, Ái dục, thân tâm thanh tịnh, mọi hành động sáng suốt, có trí tuệ chỉ đạo. Đồng thời tư duy, quán chiếu ngay tự thân tâm, dứt sạch vô minh, phát triển Thánh trí tối thắng, đạt đến sự Giác ngộ giải thoát ngay trong thế gian này. Do đó, trong Kinh Niết-bàn, Đức Phật dạy: “Muốn thấy được Phật tánh thì phải thọ trì Giới Luật, do Giới mà hiển bày được Phật tánh và thành Phật” Về mặt tổ chức, Ni đoàn phải có kỷ cương, kỷ luật, tức là nhờ Giới Luật mới có trật tự, không có sự bất bình, đưa đến vừa ý nên tâm có hỷ lạc, định tĩnh, và trí tuệ bừng sáng mới chán 5 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc), lìa cảm thọ, dứt tội lỗi, có giải thoát, chứng đắc quả tâm cao thượng (Niết-bàn).
Giới có bốn loại căn bản là Giới Pháp, Giới Thể, Giới Hạnh và Giới Tướng. Giới có năng lực đoạn trừ các điều ác, thành tựu mọi việc lành, tu hành sẽ được Chánh định và Giải thoát, chứng quả Bồ-đề Vô thượng. Thực tập Giới Luật thì hiểu rõ điều nào nên làm để được hạnh phúc, an lạc, điều nào nên tránh để tránh khỏi khổ đau. Bài kệ trong Kinh Pháp Cú thể hiện rõ tinh thần Giới Luật:
Đừng làm các việc ác
Hãy làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đó là lời Phật dạy.
Giới Luật và Trí Tuệ có liên quan mật thiết với nhau. Người có trí tuệ tất nhiên nghiêm trì Giới Luật; ngược lại, người trì Luật nghiêm túc chắc chắn là do Trí tuệ. Giới hạnh và Trí tuệ là điều tối thắng trên đời, nên Kinh Chủng Đức, Thế Tôn nói rằng:”Nơi nào có Giới Luật thì nơi đó có Trí Tuệ, nơi nào có Trí Tuệ thì nơi đó có Giới Luật”4.
Giới Luật có công năng duy trì mạng mạch Phật pháp bền vững. Cho nên, trước khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, Ngài còn di giáo: “Sau khi Như Lai diệt độ, các ngươi hãy lấy Giới Luật làm thầy, Giới Luật còn là Phật pháp còn.”
Kết luận
Nhận xét một cách khách quan, Đức Phật chấp nhận cho nữ giới xuất gia, thành lập Ni đoàn, đồng thời được gia nhập vào đoàn thể Tăng già, vì nữ giới cũng có khả tính đắc Thánh trí quả từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán quả, nhưng phải được giáo dục bằng Pháp và Luật mà Đức Phật đã chế định. Vậy, Bát Kỉnh Pháp và Giới Luật là kỷ cương, kỷ luật mà Ni giới phải thực hiện nghiêm túc suốt hành trình tu học để hoàn thiện tự thân và đạt Thánh quả Vô thượng Bồ-đề, Niết-bàn tịch tịnh.
NS. Thích nữ Diệu Nghĩa
Sc. Phúc Minh diễn đọc
- Tỳ-kheo Minh Như (Dịch, 2005), Kinh Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni, Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, tr.17.
- HT. Thích Minh Châu (Dịch, 1998), Kinh Tăng Chi Bộ, tập III, phẩm Gotami, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.114.
- HT. Thích Minh Châu (Dịch, 1998), Trung Bộ Kinh, tập II, Đại Kinh Vacchagotta, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.236.
- HT. Thích Minh Châu (Dịch, 1991), Kinh trường A-hàm, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.99.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. HT. Thích Minh Châu (Dịch, 1991), Kinh trường A-hàm, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. HT. Thích Minh Châu (Dịch, 1998), Kinh Tăng Chi Bộ, tập III, phẩm Gotami, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.HT. Thích Minh Châu (Dịch, 1998), Trung Bộ Kinh, tập II, Đại Kinh Vacchagotta, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Tỳ-kheo Minh Như (Dịch, 2005), Kinh Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni, Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm.