Nay nên nói tổng quát về ý nghĩa nội dung của sách này, tức của 9 tiểu phẩm:
Một, kinh Di giáo nói Phật diệt độ rồi thì Giới là Thầy; Giới ấy là pháp thân còn mãi của Phật; và hành trì thì phải “bất phóng dật”: đó là giáo huấn tối hậu của Phật.
Hai, kinh Bát đại nhân giác thì luận Phân biệt công đức nói “bát đại nhân niệm” (Chính 25/51); tôi chắc 8 điều giác ngộ kinh này nói, vốn được tuyển tập như trường hợp kinh Pháp cú: sự quan trọng của 8 điều ấy là ở đó.
Ba, văn Khuyến phát bồ đề tâm nói về chí nguyện của người xuất gia, mà quan trọng nhất là chí nguyện làm cho Phật pháp tồn tại.
Bốn, Phát bồ đề tâm, giảng giải thật rõ, theo luận học, về sự phát bồ đề tâm.
Năm, văn Cảnh sách thì nổi bật nhất khi nói “người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục”; “trong lòng tự kỳ hẹn cho mình phải làm trụ cột cho Phật pháp, làm gương mẫu cho tương lai”; “cưỡng lại mà tự làm chủ tể, đừng thí thân theo tánh tình con người của mình”.
Sáu, Tỳ ni thì nguyện “nghịch lưu”, chính nơi đời sống này mà diệu hóa nó ra, và căn bản là phải biết 5 đức tính “một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp; hai là hủy bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y; ba là cát ái từ thân, vì không còn thân sơ; bốn là không kể thân mạng, vì tôn sùng Phật pháp; năm là chí cầu đại thừa, vì hóa độ mọi người. Trên đây là ý nghĩa nội dung của 6 tiểu phẩm thuộc loại “phù trì của Sa di giới và Sa di ni giới”.
Bảy, Sa di luật nghi thì nói về 10 giới luật và 24 uy nghi cho Sa di. Tám, Sa di ni luật nghi thì nói về 10 giới luật và 22 uy nghi cho Sa di ni. Chín, Sa di luật nghi lục yếu cũng nói về giới luật và uy nghi cho Sa di và Sa di ni.
Nhân tiểu phẩm này, cũng nên biết danh từ Sa di mà xưa nay dùng, tôi cũng dùng, hầu hết vốn chỉ cho cấp bậc Sa di, tức gồm cả Sa di và Sa di ni. Và trên đây là nội dung ý nghĩa của 3 tiểu phẩm thuộc loại “chủ yếu của Sa di giới và Sa di ni giới”.