Sau khi cúng Giao thừa, cả nhà đều đi ngủ, chỉ ông Hai Cửu còn thức. Mặc dù ở Mỹ, đêm Giao thừa thiếu không khí thiêng liêng, thiếu tiếng pháo đì đùng nhưng ông cũng khá hài lòng với sự chu đáo của vợ chồng Công, nhất là con dâu quý hóa của ông, nó sắm sửa chẳng thiếu món gì. Tiểu bang Cali có khác!
Bàn thờ Phật trông ra vẻ Tết lắm với hai chậu mai vàng tươi tốt, tuy nhỏ nhưng đầy nụ. Mai thật chớ không phải mai nylon đâu. Hôm đi chợ hoa ở khu Lion, hai đứa thấy ông cứ đứng tần ngần bên hàng mai nên bàn nhau mua về tặng ông, đồng thời cũng để lấy hên cho năm mới.
Ông cảm động vì sự hiếu thảo của con cái, để tự ý chúng làm chớ ông cũng có khả năng mua được. Tiền già lãnh hàng tháng, ông phụ con phân nửa tiền mướn nhà – Công chẳng giàu có gì với đồng lương thợ sơn – còn mấy trăm ông xài dư dả, lại có khả năng cúng chùa, bố thí, làm việc phước thiện.
Ông Cửu hay làm việc nghĩa, thích giúp người hoặc bố thí; một phần do thói quen, một phần khác là để tưởng nhớ người vợ hiền đã khuất núi, một mẫu người đức hạnh, từ tâm hiếm có, đã từng hướng dẫn khuyến khích ông trong các việc làm từ thiện.
Vợ ông từ nhỏ đến lớn đã sống trong nhung lụa, có lắm kẻ hầu người hạ nhưng không bao giờ khinh rẻ, chê bai ai khiến chung quanh mọi người đều thương yêu, quí trọng.
Có lẽ vì tâm hồn bà rộng rãi, hiền từ, bao dung như thế nên bà đã không phải chứng kiến cuộc đổi đời 1975, cảnh gia đình bị đánh tư sản và bị đuổi về vùng “kinh tế mới”. Bà mất sớm lại là cái hay!
Từ ngày theo đứa con trai duy nhất vượt biên sang Mỹ, ông chẳng còn tha thiết điều gì. Tài sắc, lợi danh thảy đều như huyễn hóa. Ông hay đi chùa để tìm sự an tĩnh, nghe thuyết pháp để chiêm nghiệm về lẽ thật của cuộc đời nhưng thì giờ vẫn còn thừa thãi quá trong tuổi già.
Một hôm, nhớ lại sự say mê cầm bút thuở còn đi học – mà sau nầy lớn lên, con người kinh doanh đã đánh tan mộng văn sĩ trong ông – ông Hai Cửu thử viết truyện, tập làm thơ.
Chẳng biết bài vở của ông xem cũng được hay vì báo chí ở đây cần có bài để chen vào các trang quảng cáo dầy đặc – chiếm ba phần tư tờ báo – mà người ta cho đăng bài ông rất thường xuyên. Bút hiệu Hà Văn lần lần trở thành quen thuộc với những độc giả không khó tánh và dư thì giờ. Ông lấy làm hả dạ dù có được tiền nhuận bút hay không.
Giao thừa Kỷ Mão năm nay, ông chuẩn bị khai bút thật cẩn thận: Bình trà Nhật Bản đã do chính tay ông tự pha lấy và đĩa mứt gừng cay đang mời mọc. Cành hoa đào hồng thắm trên bình sứ đang nở rộ như gợi hứng cho văn nhân. Tập giấy bản thảo trắng tinh đã mở sẵn, cây viết Parker đang chờ đợi.
Ông Cửu đứng lên đi vòng vòng trong phòng, giờ đã trở nên lặng lẽ. Đêm nay, ông muốn viết một bài thật trong sáng, hiền hòa, cởi mở để tặng người vợ quá cố. Với món quà quí hiếm này, chắc bà sẽ vui lòng vì thấy tâm hồn chồng đã chuyển biến, không còn cố chấp, khắt khe như thuở nào.
Ý nghĩa đó làm ông phấn khởi, ông kéo ghế ngồi xuống, tự thưởng mình một chung trà nóng thơm ngát hương sen. Rồi trân trọng cầm viết, ông tập trung tư tưởng như một thiền sinh…
Trong giây phút trọng đại đó, hình ảnh của “thằng Lập” bỗng hiện ra. Cái mặt mâm nung núc thịt của nó chiếm trọn tâm thức của ông như một màn ảnh vĩ đại. Ông thấy rõ từng nét khó ưa của nó: Cặp mắt ốc nhồi trắng dã, cái miệng hô hốc, hàm răng khấp khểnh đen thui. Vậy mà sau nầy còn bày đặt để râu xồm xàm cho ra vẻ phú quí, chứ thật ra trông vừa xấu lại vừa dơ, chịu không nổi.
Giọng nói của nó bây giờ cũng khác xưa. Ngày nào còn là thư ký của ông, nó nói năng mềm mỏng như lụa; nhất là mỗi khi vợ ốm con đau, thiếu điều nó quì xuống lạy ông để ứng lương trước. Chắc chắn nó cũng đã lợi dụng tánh hay thương người của vợ ông để xin xỏ lắm thứ rồi. Những lúc gia đình nó hữu sự, vợ chồng ông đã cứu giúp nó tận tình; bây giờ qua đây, vợ con nó gặp thời, làm “neo” kiếm được lắm tiền, mua nhà sắm xe rộn ràng thì nó xem ông chủ cũ của nó như kẻ khố rách áo ôn; nó trở giọng thầy đời, nói năng lếu láo, nổ lung tung khiến ông không tức sao được.
Cả đời ông chuyên làm ơn, làm phước cho người, chưa hề gây thù gây oán với ai, duy chỉ ghét thằng Lập nầy thôi, ghét cay ghét đắng.
Mà lạ lắm, hễ mình ghét nó thì cứ phải nghĩ về nó hoài, càng nghĩ càng tức lộn cả ruột gan, muốn xua đuổi đi, nó càng bám riết.
Ông Hai nhớ nhiều lần thầy giảng rằng: Tâm mình là nơi cao quý lắm, như phòng khách chính trong nhà, đừng để cho những ý tưởng tham, sân, si làm nhơ bẩn, xấu xa. Hãy mời thiện tri thức vào đấy, hãy thờ Phật ở đấy. Vậy mà thằng Lập cứ ngồi chễm chệ ở đó hoài; sáng vừa mở mắt ra là gặp nó, tối ngủ nó cũng không tha. Bây giờ muốn khai bút đầu năm, nó lại lù lù hiện ra phá đám, nó ám mình như quỷ, như ma vậy… Ông Cửu vò đầu, bứt tóc. Ông cảm thấy nhức đầu, ngã người trên ghế sofa cạnh đấy.
“Ai lấp ló như thằng Lập vậy kìa? Mà sao nó không còn phương phi, trịch thượng như cũ? Nó ốm tong teo, mặt mày hốc hác, tóc tai bù xù. Còn hàm râu khả ố đã biến đi đâu mất rồi.”
Nó chắp tay lễ phép chào ông Cửu khi vừa bước vào nhà chớ không kênh kênh theo lối Mỹ vừa hất mặt vừa nói: “Hello, how are you?” Rất chướng tai như trước.
– Ông chủ ơi, em khổ quá!
“Lạ chưa, bây giờ bị khổ lại nhớ kêu mình là ông chủ!”
Ông trầm tĩnh bảo nó ngồi xuống ghế. Trông nó buồn xo, tiều tuỵ như cái bánh bao chiều. Tự nhiên ông cảm thấy tội nghiệp; ác cảm hầu như không còn.
Ân cần, ông hỏi:
– Sao, chú em gặp chuyện gì rối ren lắm hay sao mà xuống sắc dữ vậy?
– Ông chủ ơi, vợ con em bỏ đi rồi! Sáng mở mắt ra là nhà cửa trống trơn, ba mẹ con nó thì mất dạng. Em ra tiệm “neo” tìm thì tiệm đã sang cho người khác rồi.
Lập cúi đầu để dấu hai hàng nước mắt đang thi nhau nhỏ giọt:
– Hồi qua Mỹ tới giờ, thiệt tình mà nói, em chỉ ăn không ngồi rồi, sống nhờ vào tay vợ. Bây giờ đùng một cái, em hóa thành kẻ vô gia cư, chẳng biết nương dựa vào đâu? Tiền bạc không, nghề ngỗng cũng không. Nhà cửa thì bị ngân hàng thu hồi lại rồi.
Ông Cửu bậm môi để khỏi thốt ra lời khiển trách: “Mầy là đàn ông mà nói nghe bịnh quá! Thân nam nhi lại vô dụng, sống nhờ vợ như chùm gửi. Bạc nhược hết chỗ nói!”
Tuy nhiên, ông Cửu cảm thấy dễ chịu hơn với hình ảnh chú Lập khốn cùng: còn cái thằng Lập phởn phơ thành công sao mà đáng ghét chi lạ!
Trước hoàn cảnh bi đát của Lập – bi đát hơn thiên tai, bão lụt hay hỏa hoạn nữa kìa – vì đùng một cái bị mất hết cả tiền lẫn tình, hóa thành kẻ bơ vơ; ông Cửu nghe thương hại.
Ông nói không đắn đo:
– Thôi, chú em (ông gọi Lập thân mật như hồi xưa) đừng buồn, chuyện đâu còn có đó. Chú còn trẻ, có thể tìm việc làm nuôi thân. Bây giờ, tạm ở chung với tôi đi. Phòng tôi cũng còn chỗ kê thêm cái giường nữa.
Thấy Lập vẫn cúi đầu làm thinh, ông an ủi thêm:
– Đời người ai cũng có lúc thịnh lúc suy, khi được khi thất. Những sự vô thường đó hãy nhìn nó đến đi như mây nổi, như chiêm bao…
(còn tiếp)
Diệu Nga (ĐSHĐ-100)
Diễn đọc: SC Quảng Hiếu