Khi nói đến nghi lễ chúng ta cần phải hiểu qua ý nghĩa của nó. Nghi: là nghi thức, lễ nghi, lễ phép, khuôn phép, oai nghi… . Lễ: là lễ giáo, lễ nhạc, cúng bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính… Nói tóm lại là nghi lễ chỉ chung cho nghi thức tụng niệm, hành lễ, sinh hoạt trong phạm vi tín ngưỡng, thờ phụng của một tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo nào đều có những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh thần đạo vị của mình. Mặc dầu trên thể thức âm điệu của mỗi đạo giáo có phần sai khác, nhưng mục đích vẫn là chí thành cầu nguyện tán thán công đức của vị giáo chủ mà mình đã qui ngưỡng tôn thờ. Đạo Phật không chỉ chú trọng về phương diện nghi lễ mà chỉ nhằm đưa người vào đạo Phật một cách dễ dàng. Ví dụ như cầu an cho người bệnh hoạn, tai nạn, v.v… Cầu siêu bạt độ cho người lâm chung v.v… Đó là những phương tiện để điều hòa lý trí, tạo tình cảm cho con người, an ủi tinh thần cho người còn cũng như kẻ mất. Vì thế, nghi lễ cũng là vấn đề quan trọng và có nhiều lợi lạc trong đạo, chúng ta cần phải học tập và hiểu rõ ý nghĩa nhữ̃ng vấn đề thuộc về nghi lễ trước khi hành lễ.
Mỗi khi hành lễ muốn tạo nên âm thanh nhịp nhàng trầm bổng, để tăng phần trang nghiêm và linh cảm cần có những pháp khí để làm phương tiện hỗ tương trong những khóa lễ.
Sau đây là cách đánh chuông mõ
– Tiên tam trước đánh 3 tiếng
– Thứ lôi thất tiếp nhịp bảy
– Tịnh đả tam đánh ba tiếng
– Trung đả thập giữa đánh mười
– Hậu diệt tứ sau dứt bốn
* Trước đánh ba tiếng ý nói: chúng sanh đều do ba nghiệp (thân, khẩu, ý) tạo ác, sau đọa ba đường khổ (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh). Cũng có nghĩa trừ tam độc (tham, sân, si) để chứng tam đức (pháp thân, bát nhã, giải thoát).
* Tiếp nhịp bảy: là tiêu biểu thất chi tội (thân tam: sát, đạo, dâm. Khẩu tứ: vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu). Để chứng thất giác chi (trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ xả, định, niệm).
* Đánh ba tiếng: nghĩa là hay tu tam học (giới,định, tuệ). Quyết chứng tam thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
* Giữa đánh mười tiếng: là để tiêu trừ mười điều ác (thất chi tội, thêm ý có ba, cộng lại thành mười điều ác), để chứng mười thân (Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực thân, trang nghiêm thân, oai thế thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân, trí huệ thân).
* Sau dứt bốn tiếng: là tiêu trừ bốn tướng (sanh, lão, bệnh, tử), để chuyển thức thành bốn trí:
– Thành sở tác trí (tiền ngũ thức)
– Diệu quan sát trí (đệ lục ý thức)
– Bình đẳng tánh trí (đệ thất mạt-na thức)
– Đại viên cảnh trí (đệ bát A-lại-da thức).
T.N. Đồng Thủy (ĐSHĐ-015)